28 Tháng mười, 2022
Kiến thức đầy đủ về Bệnh Trầm Cảm: triệu chứng và chữa trị
Theo nghiên cứu của các tổ chức Mỹ, hàng năm cả nước này xuất hiện khoảng 10% hay 21 triệu bị chứng trầm cảm, tài liệu Y học gọi là “depression”. Các nhà Kinh Tế, giới Y học xuất hiện thể dự đoán đc nhiều thiệt hại vô cùng cao về tài chính nhưng chẳng mấy ai có thể đo đc mức đau đớn của nhân sự do chứng trầm cẩm gây ra. Sự trầm luân không riêng ảnh hưởng trọn mang lại người mắc bệnh mà còn ảnh hưởng trọn cho thân nhân, bạn bè, nhiều người che chở quý mến bệnh nhân. Chứng trầm cảm có thể phá hủy cả một gia đình và sự sống của người bệnh.
Có thể bạn quan tâm: » Hiểu về Toxic Positivity – sự tích cực độc hại
Hầu hết những người bị trầm cảm thường chưa tìm biện pháp chữa trị, dù chứng trầm cảm không phải là một bệnh nan y. Dường giống như người ta chưa tin rằng bệnh trầm cảm là một chứng bệnh có thể được chữa lành cũng như có thành kiến không mấy giỏi xinh vể nhiều chứng bệnh Tâm Thần. Vì như thế, người bệnh tiếp tục đau buồn, thân nhân sẽ bó tay đứng nhìn người thân chịu trầm luân, cũng như chúng ta cùng đau đớn như nhau.
- Đọc có thêm: Tâm sự của một người nam nhi bị trầm cảm
I. Bệnh trầm cảm là gì?
Trầm cảm chính là chứng bệnh ảnh hưởng trọn mang lại cơ thể, tình thân, ý suy nghĩ của người bệnh. Chứng trầm cảm ảnh hưởng cho bữa cơm, giấc ngủ, biện pháp nghĩ về, cái ngắm về bạn dạng thân cũng như sự việc chung quanh. Chứng trầm cảm không cần là một nỗi ai oán thoáng qua và cũng không cần khi là sự “yếu ớt” của tâm trạng hoặc do “thiếu” bản lãnh mà người bệnh có thể tự luyện mang lại mình sự cứng cỏi và…hết bệnh! Người bị chứng trầm cảm không thể tự “thay đổi” mình hoặc tự “phát triển” để khỏi bệnh. Không đc chữa trị đúng mức, triệu chứng của trầm cảm có thể kéo dài nhiều tuần lễ, những tháng và cả các năm.
II. Phân loại chứng trầm cảm:
Chứng trầm cảm xuất hiện ba loại chính, và trong từng loại trầm cảm, triệu chứng, mức độ cũng như đặc thù của những triệu chứng có thể thay đổi.
Trầm cảm trầm trọng (Major depression): những triệu chứng khiến đầu óc và cơ thể hầu như tê liệt, người bệnh mất năng lực làm việc, học hỏi, chưa thể ẩm thực, mất ngủ, và mất cả các sinh thú mà trước đây sẽ đem đến sự vui vẻ đến người bệnh. Người bệnh xuất hiện thể chỉ bị trầm cảm trầm trọng một lần vào đời, nhưng chứng trầm cảm trầm trọng cũng xuất hiện thể tái phát các lần.
Trầm cảm (dysthymia): những triệu chứng kinh niên, tuy chưa khiến người bệnh bị tê liệt về tinh thần và thể xác nhưng người bệnh không còn sinh thú, không còn tha thiết đến bất kỳ thứ gì.
Bipolar disorder, còn xuất hiện tên khi là manic-depressive disorder: Người bị chứng bi-polar, như tên gọi, xuất hiện lúc “high” (manic) nghĩa khi là hạnh phúc vượt mức; và có dịp “low” (depression) nghĩa khi là bi quan rầu cho mức tê liệt cơ thể. Đôi khi người bệnh chuyển từ hăm hở hạnh phúc trên mức cho phép sang tinh thần ủ ê bi thiết rầu nhanh chóng vào 2 tiếng đồng hồ, nhưng thường chuyển từ “vui” qua “ai oán” trong những ngày. Khi sống trạng thái “bi quan”, người bệnh ủ rũ cũng như có nhiều triệu chứng của bệnh trầm cảm. Khi sống tâm trạng “vui”, người bệnh có cực kỳ nhiều khí lực, nói tiện nhiều câu nói dây chuyền cũng như xuất hiện thể chưa đồng bộ cùng với nhau, khiến nhiều việc cùng thời gian dù chưa việc nào hoàn toàn. Ý nghĩ về, biện pháp khiến việc, xử sự bất thường… nằm bên cạnh sự kiểm soát của người bệnh cũng như thường tạo ra những phức tạp vào công việc làm cũng như sự xấu hổ trong khi thanh toán bên cạnh xã hội. Trạng thái “vui” nếu chưa đc chữa trị sẽ phát triển thành biểu hiện hoang tưởng (psychotic).
III. Triệu chứng của bệnh trầm cảm:
Người bị chứng trầm cảm xuất hiện thể xuất hiện vài hoặc những triệu chứng, và mức độ trầm trọng của những triệu chứng hiện đại tùy đi theo giai đoạn cơ hội cũng như ngôi nhà:
1. Triệu chứng của trầm cảm:
- Buồn rầu (nhiều ngày), bất an (anxious), hay trống vắng (empty mood)
- Luôn có thiết kế tuyệt vọng, yếm như thế (cuộc đời*không có gì vui)
- Luôn có ý tưởng “tội lỗi” (guilty), “bất xứng” (worthlessness), “chẳng xuất hiện thể khiến đc gì” (helplessness)
- Mất hết sinh thú trong đời sống đến cả tình dục
- Mất khí lực, trực tiếp cảm nhận mệt nhọc mỏi, mất sức
- Khó tập trung tâm lý, khó lựa chọn việc làm, trí nhớ kém
- Mất ngủ liên tục, thức giấc sớm (không thể ngủ trọn giấc) hoặc ngủ li bì
- Không muốn ăn uống, mất cảm nhận đói, xuống cân hay ăn uống quá độ cũng như lên cân
- Có thiết kế tuyệt vọng, muốn tự tử
- Không thể nghỉ dưỡng, dễ nóng giận
2. Triệu chứng của “Vui quá độ” (mania):
- Vui vẻ mang lại mức bất thông thường
- Dễ nóng giận
- Không cần nghỉ ngơi, không phải ngủ
- Có ý tưởng xa vời cùng với thực tiễn
- Nói không giảm nghỉ
- Ý tưởng “chạy” đặc biệt tiện cũng như lẫn lộn trong đầu óc
- Mất rà soát trong biện pháp xử sự cũng như lựa chọn nhiều việc làm
Vài loại trầm cảm có vào nhiều người bệnh cũng như thân nhân chúng ta, như thế xuất hiện thể do một sự “bất thường” gì đó vào những di thể, đặc biệt với chứng “bi-polar”. Các cuộc khảo cứu về “di truyền” tính giữa nhiều người bệnh cùng huyết thống gợi mở rằng nhóm người này có sự khác biệt vào di thể so với các người khác. Tuy nhiên, không cần ai có “hình tượng” (pattern) di thể này đều bị chứng “bi-polar”. Những nhân tố bên bên cạnh giống như sự khó khăn vào đời sống (áp lực) sẽ khởi đầu đến chứng trầm cảm.
Chứng trầm cảm trầm trọng (major depression)dường như cũng có vào một số trong những gia đình, nhưng những nhân viên khảo cứu không tìm ra di truyền tính giữa nhiều người bệnh có cùng huyết thống. Dù có tính di truyền hoặc chưa, chứng trầm cảm trầm trọng thường liên quan đến sự hiện đại trên não bộ, cấu trúc (brain structure) hoặc cả công dụng (brain function).
Những người tự mang đến khi là mình kém cỏi (low self-esteem) thường xuất hiện cái ngắm yếm thế hoặc nhiều người nản lòng khi chạm mặt phức tạp trong đời sống thường dễ bị chứng trầm cảm. Y học không chắc chắn đc đâu là nguyên nhân: Người xuất hiện mầm mống của chứng trầm cảm thường ai oán yếm như thế cũng như dễ quỵ ngã trước phức tạp, nghịch cảnh? Hoặc nghịch cảnh, phức tạp của đời sống làm con người bị trầm cảm cũng như phát triển thành bi lụy yếm thế?
Gần đây, nhiều chuyên gia về bệnh Tâm Thần đã tìm thấy sự thay đổi vào khung người đi song với sự đổi thay trên tâm thần. Những chứng bệnh giống như tai biến huyết mạch não, nhồi cơ tim, ung thư, bệnh Parkingson, xáo trộn kích ưa thích tố xuất hiện thể gây chứng trầm cảm khiến người bệnh không tha thiết mang lại việc tự che chở, và thường nối dài lúc cải thiện. Những nghịch cảnh, khó khăn trong đời sống như khi nhân sự gặp gỡ một mất mát rộng lớn (người thân, tình yêu, tiền bạc, công công việc hay chức vị) cóthể khởi đầu chứng trầm cảm. Cả ba nhân tố, di truyền, tâm thần và hoàn cảnh ở, thường chi tiết mang đến việc khởi điểm của bệnh trầm cảm. Chứng trầm cảm khi tái phát có thể không do một lý do, nguyên nhân nào.
Chứng trầm cảm ở đàn bà
Số đàn bà bị chứng trầm cảm thường cao gấp đôi so cùng với đấng mày râu. Sự xáo trộn của nhiều kích yêu thích tố nữ đc xem giống như yếu tố đưa đến chứng trầm cảm, nhất là khi mãn kinh, thai nghén, hư thai, sau thời điểm sanh nở (post-partum)… bên cạnh những nghịch cảnh, khó khăn vào đời ở. Chứng trầm cảm chi tiết đến sự xáo trộn kích yêu thích tố thường đc chữa lành khi khối lượng kích ưa thích tố quay về thông thường, qua thuốc men hoặc với lúc.
Chứng trầm cảm ở nam giới
Dù số quý ông bị chứng trầm cảm thấp rộng phụ nữ,*khoảng 6 triệu con người sinh sống trên Hoa Kỳ. Thông thường, đấng mày râu ít khi nhìn nhận rằng mình bị chứng trầm cảm,*có thêm trong đó, bác sĩ thường không để ý và tìm tòi chứng trầm cảm tại nam bệnh nhân. Số*nam nhân tự tử vì tuyệt vọng cao gấp 4 lần phái nữ, mặc dù số con gái “hãy thử” tự tử (attempt) cao hơn. Sau tuổi 70, số nam nhân tự tử lên cao, cũng như cao nhất sống tuổi 85.
Trầm cảm ảnh hưởng đến sức khỏe quý ông khác với phái đẹp. Nam nhân cùng với chứng trầm cảm thường bị bệnh tim mạch cũng như chết vì nhồi cơ tim ngay cả nhiều người ở tuổi 40.
Chứng trầm cảm sống phái nam thường được (bị) che dấu qua việc nghiện rượu, nghiện cần sa hoặc ma túy, hoặc bởi sự “khiến việc không nghỉ ngơi” (working excessive long hours) mà trái đất đơn giản chấp nhận. Chứng trầm cảm tìm nhìn thấy ở phái mạnh qua nhiều triệu chứng như khó tính, khó chịu, và phẫn chí. Nam nhân chưa mấy khi chấp nhận hoặc nhìn nhận rằng bọn họ vô vọng, hoặc bi quan rầu, vì thế tìm ra chứng trầm cảm sống nam nhân không phải là điều đơn giản. Ngay cả khi người bệnh hiểu rằngmình bị trầm cảm, nam nhân không mấy khi tìm bác sĩ để chữa bệnh. Sự khuyến khích, cảm thông cũng như trợ giúp từ thân nhân khi là những nhân tố khẩn cấp tạo nên việc tìm tòi và chữa trị đúng mức mang lại chứng trầm cảm sống nam nhân.
Chứng trầm cảm sống người già
Bác sĩ thường chưa tìm tòi cũng như chữa trị chứng trầm cảm ở những người cao niên, vì khi đi khám bệnh các vị cao thâm thường chỉ nói đến các triệu chứng chi tiết cho cơ thể cũng như không đề cập đến những triệu chứng giống như vô vọng, bi quan rầu, mất ngủ, biếng ăn, mệt mỏi mỏi … không chỉ thế, một vài triệu chứng của bệnh trầm cảm như biếng ăn, mất ngủ, mệt mỏi mỏi xuất hiện thể là phản ứng phụ của vài loại thuốc khiến việc truy tìm chứng trầm cảm khó khăn rộng.
Khi tìm thấy bệnh trầm cảm vào các bệnh nhân cao quý, việc chữa trị bằng Tâm Lý (psychotherapy) thường rất rất hiệu quả.
Chứng trầm cảm ở trẻ con
Sự chuyển đổi không ngừng trưởng của khung người địa điểm trẻ em thường đi đôi cùng với với nhiều đổi thay về trạng thái, thời điểm vui thời điểm bi lụy, cơ hội cáu kỉnh, khó chịu… Những triệu chứng này thường đc xem như “thông thường” của tuổi còn mới rộng lớn nên thân nhân trong gia chủ, thầy cô sống khu trường học thường không nghĩ về mang lại bệnh trầm cảm. Ngoài nhiều đổi khác về mặt tâm lý, chứng trầm cảm còn ảnh hưởng trọn mang đến sự không nghỉ trưởng về thể xác, đứa trẻ xuất hiện thể lên cân rất rất nhanh vì sự ẩm thực quá độ. Khi tìm nhìn thấy chứng trầm cảm sống trẻ con, bên cạnh việc chữa trị về mặt tâm trạng, bác sĩ cần theo dõi kỹ lưỡng sự tăng trưởng của khung hình.
IV. Thử nghiệm cũng như chữa trị chứng trầm cảm
Trước khi chữa trị chứng trầm cảm, người bệnh rất cần được khám bệnh kỹ càng (complete physical exam and mental exam) cũng như thử nghiệm máu hay bên cạnh đó, tiếp tục cần MRI, CT scan. Sựnhiễm trùng và một vài loại thuốc men có thể tạo ra những phản ứng phụ tương tự như là triệu chứng của bệnh trầm cảm, cũng như bác sĩ cần tìm kiếm nguyên nhân của những triệu chứng này trước khi mang lại rằng bệnh nhân bị bệnh trầm cảm. Sau đó, bệnh nhần cần một cuộc thử nghiệm Tâm Lý bởi bác sĩ Tâm Thần (Psychiatrist) hay bởi chuyên gia về Tâm Lý (Psychologist).
Một cuộc thí điểm Tâm Lý trọn vẹn gồm có bệnh sử của những triệu chứng: Triệu chứng có từ bao giờ? Luôn xuất hiện triệu chứng này hay triệu chứng thời gian ẩn lúc hiện tại? Mức độ (severity) của triệu chứng như vậy nào? Đã thử sử dụng biện pháp nào để đổi thay triệu chứng này hay chưa? Kết quả thế nào? Thân nhân xuất hiện ai*bị nhiều triệu chứng gần giống hay chưa? Nếu xuất hiện, chữa trị bằng cách nào? Có hiệu quả hoặc chưa? Sau hết, bác sĩ cần thử nghiệm về trí nhớ (memory), ngôn ngữ (speech) cũng như giải pháp suy nghĩ (thought process) xem nhiều tác dụng này có bị ảnh tận hưởng hay chưa? Nếu xuất hiện ảnh tận hưởng nhiều hay ít, trầm trọng mang đến mức độ nào…
Cách chữa trị phần rộng lớn dựa tại kết quả của cuộc thí điểm. Ngày nay, xuất hiện rất nhiều loại thuốc men nhằm dùng thử trong việc chữa trị chứng trầm cảm, cũng như các loại chữa trị Tâm Lý (psychotherapy) đc sử dụng đôi song với thuốc men. Chứng trầm cảm ở mức độ nhẹ có thể đc chữa trị hiệu quả qua cách chữa trị Tâm Lý. Chứng trầm cảm trầm trọng thường đc chữa trị bằng thuốc men, và hầu giống như cả hai cách kể tại. Thuốc men để giảm triệu chứng cũng như chữa trị Tâm Lý để giúp bệnh nhân tìm ra cách ứng xử trước nghịch cảnh hay nhiều khó khăn của cuộc sống.
1. Electroconvulsion therapy (ECT):
Là một cách thức dùng điện lực để kích thích não bộ. Bác sĩ sử dụng thuốc ngủ và thuốc mê đưa cơ thể bệnh nhân vào tâm trạng nghỉ ngơi, sau đó đặt đạo cụ dẫn điện (electrode) tại da đầu và chuyền điện vào não bộ, giòng điện dẫn đến một cơn động kinh đặc biệt ngắn, khoảng 30 giây. ECT được dùng thử khi bệnhnhân chưa thể sử dụng thuốc men hay không muốn sử dụng thuốc men, cũng như được trải nghiệm ít đặc biệt 3 lần vào 1 tuần lễ chữa trị.
2. Các dược phẩm thông dụng:
Có nhiều nhóm dược phẩm được sử dụng nhằm chữa chứng trầm cảm, nhiều nhóm chính gồm xuất hiện:
Loại dược phẩm ngăn sự “thu hồi” (reuptake) của serotonin, một loại hóa chất vào tế bào thần kinh, có thương hiệu khi là “selective serotonin reuptake inhibitor” hay SSRI. Loại dược phẩm này và nhiều loại dược phẩm mới ảnh tận hưởng cho khối lượng dopamine hay norepinephrine, nhiều hóa chất khác trong tế bào thần kinh. Dopamine, serotonin, norepinephrine…đc gọi chung là “neurotransmitter”.
Loại “tricyclic”, tên dựa đi theo cấu trúc của hóa chất
Loại monoamine oxidase inhibitor (MAOI).
Nhóm thuốc SSRI và các dược phẩm ảnh hưởng cho những neurotransmitter xuất hiện ít phản ứng phụ so cùng với loại “tricyclic”. Bác sĩ thường hãy thử nhiều loại thuốc không giống nhau trước lúc tìm ra loại thuốc yêu thích hợp nhất cho bệnh nhân. Hiệu quả thường nhìn thấy sau vài tuần lễ, nhưng phổ biến, bệnh nhân cần dùng thuốc tầm 8 tuần lễ mới thấy mức hiệu suất cao tối đa.
Bệnh nhân khi cảm giác mát dịu thường bỏ thuốc, hay bỏ thuốc quá sớm vì mang lại rằng thuốc không hiệu nghiệm. Điều được chú trọng ở đó là bệnh nhần rất cần phải lưu ý thường xuyên nhằm sẽ sử dụng thuốc, ngay cả khi thấy phản ứng phụ các ngày trước lúc thấy công hiệu của thuốc. Khi bệnh nhân thấy mát mẻ, nhưng vẫn rất cần phải sử dụng thuốc ít nhất 4-9 tháng nhằm ngăn ngừa sự tái phát của chứng trầm cảm. Có một số loại dược phẩm rất cần được giảm khối lượng từ từ, nhằm cơ thể xuất hiện đủ thời điểm yêu thích nghi, chứ chưa thể bỏ ngay. Không bao giờ bỏ thuốc trước lúc xem thêm cùng với bác sĩ. Bệnh nhân bị chứng bi-polar hoặc bị chứng trầm cảm*kinh niên*có thể cần sử dụng thuốc*vô hạn định.
Các loại dược phẩm sử dụng chữa trị chứng trầm cảm không tạo ra sự “nghiên ngập”. Tuy nhiên bệnh nhân rất cần phải theo dõi kỹlưỡng nhằm tìm ra khối lượng thuốc nguy cấp.
Một số nhỏ bệnh nhân cần sử dụng loại MAOI, khi dùng loại thuốc này, bệnh nhân cần loại trừ những thức ăn uống có chất tyramine; chất này chứa vào fromage (cheese), rượu vang nhất là vang đỏ, loại rau cải muối chua (pickled) và nhiều loại “decongestant” chữa cảm cúm. Khi tyramine và MAOI liên hệ, tiếp tục khiến huyết áp*lên vô cùng cao, hypertensive crisis, xuất hiện thể khiến tai biến mạch máu não tức thời. Bệnh nhân dùng MAOI cần có theo bên mình một list các loại thức ăn uống chứa chất tyramine.
Bệnh nhân nên tham khảo với bác sĩ trước khi sử dụng có thêm bất kể loại thuốc nào đến cả các loại thuốc bán không cần toa bác sĩ. Khi thăm bệnh với nhiều bác sĩ khác hay nha sĩ, bệnh nhân cần nói rõ thương hiệu loại thuốc mình đang dùng thử (chớ dấu diếm) vì nhiều loại thuốc khi dùng thử khác biệt thì hiệu suất cao nhưng khi dùng chung cùng với nhau xuất hiện thể gây phản ứng phụ trầm trọng. Rượu và nhiều loại thuốc “cấm” (illicit drug, street drug) khi pha trộn với các dược phẩm chữa trầm cảm cũng xuất hiện thể khiến phản ứng phụ trầm trọng. Một số bệnh nhân bị chứng trầm cảm cũng bị nghiện rượu hay ma túy, vì rượu cũng như ma túy giảm sút những triệu chứng như*buồn bã, bi ai rầu. Khi hết say rượu hoặc ma túy, bệnh nhân rơi trong sự tuyệt vọng và gian khổ hơn trước khi say, vì thế họ sẽ uống rượu hay dùng ma túy để làm tê liệt những xúc cảm.
Các loại thuốc làm giảm sự hồi hộp, lo ngại (anti-anxiety) hay thuốc ngủ không cần là thuốc chữa trầm cảm; đồng thời đc sử dụng cộng đồng với các loại thuốc chữa trầm cảm để trợ giúp bệnh nhân bớt bồn chồn hay dễ ngủ; nếu dùng riêng rẽ, các loại thuốc này thường không công hiệu vào việc chữa trị chứng trầm cảm.
Lithium khi là loại thuốc được dùng thử bấy lâu nhằm chữa chứng bi-polar, rất rất công hiệu vào việc giữ lại sống mức “thông thường” các cảm xúc của người bệnh, chưa vui bi lụy thái quá. Loại thuốc này rất cần được đi theo dõi kỹ lưỡng vì sự riêng biệt rất nhỏ giữa mộtlượng thuốc “hiệu quả” cùng một lượng thuốc “quá liều” (very narrow therapeutic index). Những bệnh nhân bị bệnh tim mạch, tuyến đường thyroid, thận, động kinh không thể sử dụng lithium. Các loại thuốc khác sử dụng vào việc chữa trị mania bao gồm cả loại thuốc dùng chữa chứng động kinh (anticonvulsant) như Depakote, valproate.
Những bệnh nhân bị chứng bi-polar thường dùng nhiều loại thuốc không giống nhau, chung cùng với lithium hoặc cùng với loại anticonvulsant, như những thuốc trợ giúp dễ ngủ, giảm hồi hộp… Thử và tìm ra một đội nhóm thuốc hiệu nghiệm trong việc chữa trị bi-polar đặc biệt đặc biệt đến người bệnh, đòi hỏi sự kiên nhẫn, kỹ càng của cả bệnh nhân lẫn bác sĩ.
3. Phản ứng phụ (side efffects):
Các loại thuốc chữa trầm cảm xuất hiện phản ứng phụ nhẹ cũng như thời gian ngắn. Tuy nhiên khi gặp các phản ứng phụ ảnh hưởng nặng nề mang lại đời ở thường nhật, bệnh nhân cần tham khảo cùng với bác sĩ ngay.
Nhóm thuốc “tricyclic” thường xuất hiện các phản ứng phụ giống như khô miệng (nhắp nước cũng như nhai gum mang lại bớt khô miệng); táo bón (an những chất xơ, rau trái để trợ giúp nhuận trường); tiểu gọn khó khăn, phức tạp trong việc gioa hợp, mờ mắt (tiếp tục bớt sau vài tuần lễ dùng thuốc); chóng mặt; ngầy ngật.
Nhóm thuốc mới thường xuất hiện những phản ứng phụ giống như: Nhức đầu, bi lụy ói, bối rối, mất ngủ, cáu kỉnh, và phức tạp trong việc bàn giao hợp.
4. Các loại cây cỏ (herbal therapy):
Trong nhiều năm gần đây, đã xuất hiện một số loại hoa cỏ được dùng thử nhằm chữa chứng trầm cảm. St John s wort (Hypericum perforatum) dược xem giống như thông thường nhất để chữa trầm cảm loại nhẹ trên Âu châu, cũng như đc những bác sĩ tại Hoa Kỳ để ý cho.
St John s wort chính là loại cây thảo, mọc mỗi bụi thấp, trổ hoa vàng vào mùa Hè, được dùng cực kỳ những, bởi nhiều nhóm ngườiqua bao nhiêu thế kỷ. Ngày nay, trên Đức, Hypericum được dùng nhằm chữa trầm cảm, thông dụng hơn cả tất cả loại thuốc khác. Tuy nhiên nhiều cuộc khảo cứu về loại cây này sẽ là các cuộc thử nghiệm ngắn hạn và dùng nhiều lượng khác biệt. Điều này xuất hiện nghĩa khi là ta chưa Tóm lại được lượng thuốc nào xuất hiện công hiệu cũng như khi trải nghiệm vào dịp dài 6 -12 tháng thì có hiệu nghiệm hoặc không, và có các phản ứng phụ nào.
Tại Hoa Kỳ, 3 cơ quan National Institute of Mental Health, the National Center for Complementary and Alternative Medicine, và Offfice of Dietary Supplements sẽ triển khai một cuộc thử nghiệm Y tế khá độ lớn, bao gồm 336 bệnh nhân với chứng trầm cảm trầm trọng. Các bệnh nhân này được chia (random selection) khiến 3 nhóm. Nhóm 1 sử dụng St John s wort ở 1 khối lượng nhất định, nhóm 2 sử dụng một loại SSRI, và nhóm 3, control, sử dụng giả dược (placebo). Bệnh nhân cũng như các bác sĩ không ai biết bệnh nhân đã sử dụng loại thuốc nào trong vòng 8 tuần lễ. Những bệnh nhân cảm nhận mát dịu được sẽ thêm 18 tuần nữa. Sau 8 tuần lễ đầu, nhiều bệnh nhân được thí điểm qua 2 tiêu chuẩn, những triệu chứng về trầm cảm có bớt không, và những chức năng (functioning) của bệnh nhân có hiện đại chưa. Cả 3 nhóm đều không xuất hiện sự đổi mới trong triệu chứng của trầm cảm, nhưng về bên công dụng, nhóm 2 (chữa trị với SSRI) có năng lực khiến việc tối đa (khiến được nhiều nghề nghiệp trước khi bị bệnh trầm cảm) trong 3 nhóm. Kết luận, kết quả của cuộc thử nghiệm này bật mí St John s wort không có công dụng gì, ít ra khi là sống khối lượng thuốc sẽ được thử nghiệm. Các thợ chụp ảnh đang sẽ các cuộc thử nghiệm về công dụng của nhiều loại cây cối khác trong việc chữa trị chứng trầm cảm.
Năm 2000, FDA đã ra mắt một bạn dạng Khuyến Cáo của Hội Đồng Cố Vấn Y học, St John s wort ảnh hưởng trọn cho những phản ứng biến đổi quan trọng trong khung người, metabolic pathways. Các phản ứng này biến hoá các dược phẩm chữa những bệnh giống như AIDS, tim mạch, kinh phong, ung thư, thuốc giảm đề kháng nhằm duy trì quy trình ghép (anti-rejection). Vì vậy, khi sử dụng St John swort, bệnh nhân phải nói đến bác sĩ biết để nơi ngừa nhiều phản ứng phụ cũng như gia tăng những lượng thuốc khác nếu cần.
5. Chữa trị Tâm Lý (psychotherapy)
Có những biện pháp chữa trị Tâm Lý, gồm cả những cuộc chữa trị thời gian ngắn (10-20 tuần lễ), có thể trợ giúp bệnh nhân bớt trầm cảm.. “Nói chuyện” giúp bệnh nhân phát hiện ra “mình”, các phức tạp của chính mình và có thể vượt qua những khó khăn nghịch cảnh khi được phía dẫn đúng mức. Các chuyên gia về Tâm Thần có thể dùng “behavior therapy” trợ giúp bệnh nhân thay đổi giải pháp ứng xử vào đời ở hàng ngày để xuất hiện thể thích nghi dễ dàng hơn cùng với hoàn cảnh và thị trường sống. Khi có thích nghi với giai đoạn sống,*bệnh nhân*giảm sút các nguyên nhân gây khó khăn đến chính chúng ta.
Hai loại chữa trị Tâm Lý thời gian ngắn bao gồm “interpersonal” (cách giao tiếp) cũng như congitive/behavioral (giải pháp ứng xử) có thể trợ giúp bệnh nhân trông thấy và bỏ bớt nhiều giải pháp ứng xử tạo phức tạp mang đến chúng ta.
Psychodynamic* là biện pháp chữa trị thiên về sự giúp bệnh nhân*hóa giải các ý*nghĩ đảo nghịch trong tâm tưởng làm đầu óc chúng ta tê liệt. Cách chữa trị này* đc vận dụng sau thời điểm nhiều triệu chứng trầm cảm đã giảm bớt cũng như bệnh nhân xuất hiện thể tập kết tư tưởng cũng như nâng cao trí nhớ.
Nói cộng đồng, khi chứng trầm cảm sống mức trầm trọng, ta thường cần cho dược phẩm, đôi khi ECT, và kế tiếp chữa trị Tâm Lý nhằm giúp bệnh nhân khỏi bệnh. Bước mới nhất, bước phức tạp nhất, là việc nhìn (nhìn thấy) cũng như nhìn thấy mình bị trầm cảm. Không mấy ai xuất hiện thể gật đầu đồng ý rằng mình bị chứng trầm cảm vì bệnh Tâm Thần cho đến chứng trầm cảm bị thế gới cho là căn bệnh của sự “yếu đuối”, thiếu tự tin, “hèn hạ”… Vì như thế người ta thường chối bỏ những triệu chứng của trầm cảm và trốn tránh việc tìm biện pháp chữa trị; ngay cả khi đc thân nhân khuyến khích. Ngày nay, cái nhìn của thế gới đã có phần đổi thay, “ngắm” bệnh Tâm Thần giống như có tất cả chứng bệnh vàtích cực tìm giải pháp chữa trị.
Khi bắt gặp mình bị chứng trầm cảm, phần đông bệnh nhân thường chưa tìm biện pháp chữa trị vì lo ngại rằng người cộng đồng quanh nghĩ về không tốt đẹp về phần mình. Từ bước “nhìn nhận” mang lại bước “tìm biện pháp chữa trị” chính là bước rất xa về cơ hội (nhiều tháng hay là các năm) và thường không phải thiết; đặc biệt khi người bệnh đắm chìm vào nỗi khổ cực, bi quan rầu, tuyệt vọng của riêng mình… Sau lúc này nhiều bước nhỏ nhằm người bệnh tự giúp trong lúc tiếp cận quyết định tìm giải pháp chữa trị.
V. Phải khiến thế nào khi nhận thấy mình có dấu hiệu bị trầm cảm?
Chứng trầm cảm khiến người bệnh cảm nhận mất hết công sức, “không xứng đáng” (worthlessness), “chưa khiến được việc gì” (helplessness), cũng như vô vọng. Những thiết kế bi đát và yếm thế (negative thoughts) này làm tâm lý chúng ta suy sụp. Từ việc suy sụp về trạng thái mang đến sự chán sống và tê liệt cả thể xác. Điều đặc biệt cần nhớ là những tâm lý bi thương yếm thế này có tính cách thời gian ngắn, khi biện pháp chữa trị công hiệu, các tâm lý yếm như thế bi quan này tiếp tục dần dần mất dấu.
- Bước 1: Tạo mang đến mình nhiều phương châm xuất hiện thể thức hiện tại đc (realistic goals) và lãnh nhận nhiệm vụ của mình
- Bước 2: Tìm một người tin cậy để giải bày tâm sự, hỏi chủ ý; chưa nên trốn hạn chế thân nhân, xoay sở một mình hay giữ lại “bí kíp”
- Bước 3: Làm những việc mà ta thấy thích thú
- Bước 4: Tập các động tác thể thao mà khung hình kham nổi nhằm giúp lấy lại khí lực
- Bước 5: Tham dự vào đời sống bên bên cạnh: đi xem cine (thay vì ngồi ngôi nhà xem CD), đi chùa, đi ngôi nhà thờ…tham dự những hoạt động cộng đồng với một đội người
- Bước 6: Cần thực tiễn cũng như chấp nhận rằng nhiều ý nghĩ về bi thảm yếm thế chỉ giảm dần dần qua nhiều ngày tháng, không biến mất vào vài tuần lễ
- Bước 7: Không nên có những quyết định đặc biệt (phát triển công nghề nghiệp, kết duyên, ly dị…) trong lúc đang được ai oán rầu phẫn chí, hãy chờ đến khi*y tế khả quan rộng. Hỏi ý kiến nhiều người biết rõ*mình trước lúc bị chứng trầm cảm
- Bước 8: Không mấy ai “hết bịnh” trầm cảm qua đêm, chúng ta chỉ cảm giác mát dịu hơn, mỗi ngày 1 chút.
- Bước 9: Sự sáng sủa sẽ hỗ trợ chúng ta lìa bỏ hoặc thay thế các thiết kế bi tráng bi thiết rầu của chứng trầm cảm, nhất là khi bệnh đc chữa trị đúng mức
- Bước 10: Hãy nhằm thân nhân hỗ trợ ta.
VI. Làm như thế nào khi xuất hiện người nhà bị bận rộn chứng trầm cảm?
Khi gặp mặt tai biến, nghịch cảnh ảnh hưởng trọn nâng cao đến đời sống, phản ứng mới nhất của nhân sự là “shock”, sau đây là bi thiết rầu, phẫn chí… Những phản ứng này khi là các phản ứng ngẫu nhiên, chuyện phải có. Thí dụ: bán buôn thua lỗ tạo nên việc phá sản,*mất công việc vì công ty du học thải người, đau ốm hoặc tai nạn tạo tàn tật, tình duyên hôn nhân tan vỡ, mất người yêu thích … là các tai biến lớn trong cuộc sống con người. Những tai biến ảnh hưởng trọn cho tinh thần lẫn vật chất cũng như nếp ở của một cá nhân hay cả một gia chủ. Dĩ nhiên khi là người gặp tai ương sẽ ảm đạm rầu, âu sầu vì các mất mát quá lớn này.
Tuy nhiên, không cần tất cả mọi người gặp gỡ tai biến lớn đều bị chứng trầm cảm. Những người xuất hiện cửa sinh (đc hỗ trợ về mặt tâm trạng mặt khác cả vật chất…) tiếp tục ra khỏi sự bi quan rầu, phẫn chí*sau một dịp. Những người tìm ra cửa sinh bằng sự gật đầu cũng như yêu thích nghi với thời kì sống còn mới cũng bớt bi quan rầu và đau buồn sau đó 1 cơ hội.. Những người chưa xuất hiện lối thoát, hoặc chưa tìm ra lối thoát tiếp tục tiếp tục bi quan rầu khổ sở. Sự phẫn chí lâu dài có thể mang lại chán nản, tuyệt vọng và chứng trầm cảm.
Không nỗi gian khổ nào giống nhau, và ta cũng chưa thể đối chiếu đc nỗi đau khổ nào “lớn” hơn… vì “phản ứng” của con người trước nghịch cảnh chưa giống nhau.
Có các dấu hiệu đặc biệt “âm thầm” về chứng trầm cảm, ngườitinh tế bén nhạy xuất hiện thể nhận ra, như sự phát triển*về giải pháp làm việc, phong cách, biện pháp ứng xử… Người bệnh tìm lối thoát, tìm “quên” bằng các giải pháp. Chẳng hạn như*lao đầu vào công việc bất kể ngày đêm sau đó 1 nghịch cảnh / tai biến rất rất rộng lớn xảy ra trong cuộc sống; chưa tạo cơ hội mình bi đát rầu đau buồn hay tiếc nuối sự mất mát đã qua (mourning process), một thời gian khẩn cấp nhằm cải thiện (chữa lành vết thương). Sự “vất vả” đc xã hội cổ võ “ham công tiếc việc” chính là điều giỏi nên người này sẽ, cũng như vết thương Tâm Thần chưa xuất hiện lúc lành lặn. Một “lối thoát hiểm”, biện pháp “tìm quên” khác khi là quên bảo vệ phiên bản thân mình: Bỏ thói quen ăn uống điều độ, bỏ thuốc men đang được sử dụng trước khi gặp tai biến, thí dụ, người bị chứng động kinh xong uống thuốc ngăn kinh phong nên lên cơn làm kinh (dù đã biết trước) cũng như khiến ra tai nạn xe cộ; một loại hành động “tự hủy” một biện pháp thụ động (passive self- destruction) bởi vì với người này, sự sống chưa còn đáng ở. Đại loại, các ứng xử có tính biện pháp tự hủy. Với nhóm bệnh nhân này, chỉ xuất hiện thân nhân, nhiều người che chở chúng ta thật sự cũng như đc bệnh nhân tín cẩn, xuất hiện thể góp các ý kiến chính xác, khách hàng quan cũng như thực tiễn như một mảnh gương để bệnh nhân “ngắm” thấy mình. Với lòng kiên nhẫn cũng như tình thương của thân nhân, bệnh nhân có thể tiếp tục cải thiện. Nhóm bệnh nhân này xuất hiện khả năng làm việc đặc biệt cao (high level of function) cũng như xuất hiện thể “che dấu” chứng trầm cảm của gia đình đặc biệt lâu (qua những năm).
Khi nhận ra dấu hiệu của chứng trầm cảm, điều đặc biệt nhất là việc giúp người bệnh tìm ra chứng bệnh, được chẩn bệnh cũng như chữa trị đúng mức, không cần người nào ảm đạm rầu, phẫn chí cũng bị chứng trầm cảm. Nên khuyến nghị người bệnh sẽ việc chữa trị dù*kết quả cực kỳ chậm. Khi không thấy kết quả (sau 7-8 tuần), nên khuyến nghị người*bệnh tìm tòi cách chữa trị khác. Đôi khi, cần mang người bệnh đi gặp mặt bác sĩ cũng như gần cả việc giúp bệnh nhân theo dõi bệnh trạng của bọn họ.
Thứ nhì, sự cảm thông, kiên nhẫn, hỗ trợ và tình cảm của thân nhân giúp bệnh nhân lành bệnh gọn rộng. Khuyến khíchbệnh nhân nói tới nỗi khổ cực của họ, lắng nghe tỉ mỉ; chớ chê cười diễu cợt sự đau buồn hoặc các ý nghĩ về bi tráng yếm như thế, nên đưa ra các điều thực tiễn và tạo niềm mong muốn. Không khi nào bỏ lỡ nhiều câu nói về thiết kế muốn tự tử. Tìm hiểu thêm cũng như báo mang lại bác sĩ điều trị biết. Rủ người bệnh tham gia các hoạt động mặt bên cạnh như đi cine, bát phố, xem triển lãm…
Đừng khoảnh khắc nào cho rằng người bệnh “giả bệnh”, “lười biếng”, hoặc “ưa thích được lưu tâm” cũng như muốn họ “khỏi bệnh” sau một số trong những lần tập thể dục hay vài chầu cine. Thời gian, sự kiên nhẫn và lòng đùm bọc tiếp tục trợ giúp bệnh nhân lành bệnh.
VII. Tìm sự trợ giúp sống đâu về bệnh trầm cảm?
Mỗi TP đều xuất hiện những địa điểm chữa trị bệnh Tâm Thần, công và tư. Ta có thể tìm trong Niên Giám Điện Thoại, nhiều dịch vụ giống như “mental health”, social services”, “suicide prevention”, “crisis intervention services”, “hotlines”… cũng như ngay cả bác sĩ gia chủ hay medical clinic, nhà thương.
Ghi chú: *Tài liệu của National Institute of Mental Health (NIMH), Viện Y Tế Quốc Gia Hoa Kỳ.
Có thể bạn quan tâm: » Thoát khỏi sự lạnh nhạt trong tình yêu
Theo: Bệnh trầm cảm – bác sĩ Trần Lý Lê
Có thể bạn quan tâm: » Thủ dâm và hai trạng thái cảm xúc trái ngược
Xem có thêm trên Youtube Bạn có đang bị trầm cảm không?
#vinmec #tramcam #tuki #tamly #stress
Người mắc bệnh trầm cảm luôn luôn có những triệu chứng rối loạn tâm trạng, buồn chán và mất hứng thú kéo dài, bị ảnh hưởng đến suy nghĩ, tính cách, hành xử và những vấn đề về tinh thần, thể chất. Bệnh trầm cảm có thể khiến người bệnh buồn trong nhiều ngày tháng, thậm chí có trường hợp nghiêm trọng khiến người bệnh có ý định tự tử.
Nhiều người không biết các biểu hiện của bệnh trầm cảm là gì và tái diễn ra sao, tuy nhiên trên thực tế, các biểu hiện của bệnh trầm cảm thường tái diễn rất nhiều lần và dần trở thành mãn tính, dẫn tới suy giảm khả năng tự chăm sóc, hay nghĩ đến việc tự tử.
Lứa tuổi nào cũng thể mắc bệnh trầm cảm nên cần phải biết bệnh trầm cảm là như thế nào để phòng tránh hiệu quả hơn, thông thường nữ giới có nguy cơ mắc bệnh trầm cảm nhiều hơn nam giới khoảng 2 lần. Bệnh trầm cảm có thể gây nguy hiểm đối với người khác bởi từ chính những suy nghĩ về cái chết, ý tưởng tự tử của người bệnh.
Một số hoàn cảnh dễ dẫn tới bệnh trầm cảm như những áp lực công việc học hành, sự nghiệp đổ vỡ, cú sốc tinh thần, sang chấn tâm lý, đối diện với những khó khăn quá lớn, bất hòa kéo dài, phụ nữ sau sinh…
Bệnh trầm cảm thường bị nhầm lẫn với cảm giác chán nản, hầu hết mọi người đều có lúc cảm thấy chán nản như khi bị điểm kém, mất việc, cãi vã với ai đó, thậm chí là một ngày mưa cũng làm người ta thấy buồn. Đôi khi không có tác động bên ngoài, cảm giác này chỉ tự dưng xuất hiện. Rồi khi hoàn cảnh thay đổi những cảm xúc buồn chán đó biến mất. Bệnh trầm cảm lâm sàng lại là một vấn đề khác. Đó là tình trạng rối loạn tâm lý, và nó sẽ không biến mất mà có thể kéo dài ít nhất trong 2 tuần liên tiếp, và ảnh hưởng lớn đến khả năng làm việc, sinh hoạt vui chơi, hay mối quan hệ yêu đương.
Người mắc bệnh trầm cảm có thể xuất hiện biểu hiện như:
Tâm trạng đi xuống, không còn hứng thú với một số việc thường quan tâm
Khẩu vị thay đổi
Cảm thấy vô dụng hay cảm giác tội lỗi quá mức
Ngủ quá nhiều hoặc quá ít
Khả năng tập trung kém, bồn chồn hoặc chậm chạp
Mất năng lượng, hay thường xuyên nghĩ đến hành vi tự sát.
Nếu có ít nhất 5 triệu chứng trên, thì theo hướng dẫn về tâm thần học, bạn có thể được chẩn đoán là bệnh trầm cảm. Nếu có nghi ngờ bản thân hoặc người thân có dấu hiệu mắc chứng bệnh trầm cảm thì hãy đến cơ sở y tế để được giúp đỡ và tư vấn từ bác sĩ, tránh hậu quả xấu gây ra.
Ấn “Đăng kí” để theo dõi các video mới nhất về sức khỏe tại :
https://www.youtube.com/channel/UCuqtKp77ZbFRUFLq05-ddkw
Liên hệ với Vinmec:
Fanpage: https://www.facebook.com/Vinmec/
Website: https://www.vinmec.com
Hệ thống bệnh viện:
https://www.vinmec.com/vi/danh-sach/ca-nuoc/coso-benh-vien-v-phong-kham/
————————
Bản quyền thuộc về Vinmec
Copyright by Vinmec ☞ Do not Reup