9 Tháng năm, 2024
8 Bài văn phân tích bi kịch mất nước và bi kịch tình yêu trong truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy (lớp 10) hay nhất
Truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy là một truyền thuyết đặc sắc của địa cầu Việt cổ, mang những giá trị lịch sử và nhân văn sâu sắc. Tác phẩm đã phản ảnh bi kịch mất nước và thảm kịch ái tình của những quần chúng. # thời xa xưa. Mời các bạn tham khảo một số bài văn phân tách hay nhất nhưng chúng mình đã tổng hợp trong bài viết dưới đây.
Phân tích bi kịch mất nước và bi kịch tình yêu trong truyện An Dương Vương hàng đầu
“Truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy” là một trong những truyền thuyết dị kì hàng đầu trong kho tàng truyền thuyết Việt Nam. Truyện đề cập đến hai bi kịch cơ bản: bi kịch mất nước và bi kịch mối tình, mỗi thảm kịch ứng với từng người hùng. Qua đó đã để lại những bài học thâm thúy cho thế hệ sau.
An Dương Vương nối liền sự nghiệp dựng nước và giữ nước của phụ thân ông, khi tiếp quản, ông đã có quyết định mạnh khỏe dời kinh kì về Cổ Loa, với địa hình rộng, cân đối sẽ tiện lợi cho việc giao thương, từ đó tạo ra điều kiện để phát triển tổ quốc. Ông hành động thiết kế Loa Thành với chín vòng bền vững, được sự giúp đỡ của Rùa Vàng, Loa Thành đã hoàn thiện. Cùng với đó là nỏ thần giúp An Dương Vương đã đẩy lùi được sự xâm lấn của Triệu Đà. An Dương Vương tỏ ra là vị vua anh minh, sáng suốt và có tầm nhìn xa trông rộng. Những tưởng đất nước sẽ hưng thịnh, toàn cầu sẽ giàu có dưới sự ách thống trị của vua An Dương Vương, nhưng mà chỉ vì một phút chây lười, mất cảnh giác cơ mà đã dẫn đến cảnh nước mất nhà tan.
Có thể bạn quan tâm: » Bánh rau câu tình yêu
Bi kịch mất nước của An Dương Vương bắt nguồn từ việc đồng ý lời cầu hôn của Triệu Đà. Triệu Đà sau này bại trận, biết chẳng thể tấn công lại lực lượng hùng to gan và nỏ thần của An Dương Vương nên đã nghĩ ra mưu kế hoãn binh cầu hôn Mị Châu cho con trai là Trọng Thủy. Hành động này của hắn chính là một bước đệm để thực hành mưu mô cướp nước Âu Lạc sau này. Nhưng vua An Dương Vương cả tin, thơ ngây không hề phòng bị, theo tục Âu Lạc, Trọng Thủy về ở rể, chính An Dương Vương đã rước rắn về nhà, làm lộ bí mật quân cơ mà ông lại không hề hay biết.
Vua phụ thân đã không hề phòng bị, do vậy thanh nữ Mị Châu ngây thơ trắng trong cũng chẳng mảy may nghi ngờ. Nghe lời thử dùng xem nỏ thần của Trọng Thủy, Mị Châu ngay thức thì đồng ý ngay nhưng không hề suy xét. Nàng luôn làm tròn trách nhiệm của một nàng, mà lại quên đi trọng trách của một công dân với nhà nước. Trọng Thủy nắm lấy cơ hội đã tráo đổi nỏ thần. Nguy cơ mất nước ngày càng lớn dần.
Khi quân Triệu Đà kéo sang lấn chiếm lần nhị, An Dương Vương vẫn thản nhiên, bình tĩnh chơi cờ do nghĩ rằng có nỏ thần thì quân Triệu Đà sẽ đại bại như lần trước. Ông đâu có ngờ nỏ thần đã bị tiến công tráo từ lâu. Chính trung ương lý ỷ lại, ngủ quên trên thắng lợi của An Dương Vương lại một lần nữa đẩy ông vào hố sâu thảm kịch mất nước. Những sai lầm nghiêm trọng của người ta đứng đầu đã không còn cơ hội sang sửa, ông phải mang theo Mị Châu bỏ trốn, quân giặc ráo riết đuổi phía sau, tình cảnh khôn cùng bi tráng. Đứng trước đại dương cả bao la, phía sau là quân giặc, An Dương Vương bị dồn vào bước đường cùng phải kêu Rùa Vàng trợ giúp. Kẻ thù, giặc chính là quả đât con gái yêu của ông, bây giờ dưới vai trò là một vị vua, trên lập trường ích lợi của sơn hà, dân tộc An Dương Vương đã làm thịt chết thanh nữ mình. Đây là chủ động thế tất dù cực kỳ thương xót con. Sự thức tỉnh của An Dương Vương tuy muộn màng nhưng mà đó sẽ biến thành bài học xương máu cho mới sau để không rơi vào thảm cảnh mất nước.
Bi kịch thứ hai chính là bi kịch tình ái, thảm kịch này xoay quanh hai anh hùng Mị Châu và Trọng Thủy. Mị Châu là cô công chúa thơ ngây tinh khiết, là con một nên tất yếu sẽ nhận được sự thương cảm, yêu kính của vua phụ thân, và hệ quả cô sẽ không màng tới những chuyện đại sự của việt nam. Lấy Trọng Thủy theo lời vua phụ thân, bạn nữ hết dạ mến thương và nghe lời chồng, không suy xét, không nghi ngờ những chủ động, lời nói bất thường của Trọng Thủy. Trái ngược với sự thơ ngây của Mị Châu, Trọng Thủy lại là kẻ mánh khoé, tìm mọi cách để lấy bí mật nỏ thần. Nhưng trong quy trình sinh sống, sự quan trọng tâm thông qua, tấm lòng của Mị Châu đã làm Trọng Thủy rung động. Chính giờ đây trong Trọng Thủy diễn ra một trận đánh tranh nội trọng điểm thân tình ái và việc nước.
Hai mâu thuẫn này đấu tranh gay gắt trong Trọng Thủy, mà đây là mâu thuẫn quan yếu dung hòa, buộc phải lựa chọn. Và Trọng Thủy đã chọn làm tròn bổn phận công dân thay bởi làm tròn ái tình thương với thê thiếp. Biết được bí mật của nỏ thần, lấy trộm đem về nước và theo dấu lông ngỗng tróc nã sát tới cùng phụ vương và nhân tình. Trọng Thủy nhận lại được gì? Chỉ là nỗi thống khổ đến tột bậc khi thấy cái xác không đầu của Mị Châu. Khi hoàn thành nghĩa vụ của bề tôi thì Trọng Thủy chỉ còn lại mối tình, hết sức dằn vặt, day dứt ân hận với Mị Châu nên tìm tới cái chết. Trọng Thủy cũng giống Mị Châu, rơi vào nghịch cảnh: Khi Mị Châu yêu kính mình hết lòng thì Trọng Thủy đã rất phi chính nghĩa dối lừa Mị Châu, đến khi Trọng Thủy hết dạ yêu Mị Châu thì trong cô gái bấy giờ chỉ còn lại duy hàng đầu là nỗi hận thù. Đó chính là bi kịch của Trọng Thủy. Bi kịch đó là lời tố giác chiến tranh tăm tối, dù vật phẩm hay chiến bại đều phải nhận những thảm kịch thống khổ nhất.
Trong khi, trong bi kịch tình ái cũng cần kể đến cụ thể giàu ý nghĩa biểu tượng “ngọc trai – giếng nước”. Máu Mị Châu chảy xuống biển trở nên ngọc châu, khi lấy ngọc ấy rửa với nước giếng vị trí Trọng Thủy tự sát thì càng sáng đẹp hơn. Đây không chi tiết biểu cho tình yêu vĩnh cửu tìm về với nhau trong một quần chúng dị biệt. Mà chỉ có thể hiểu là sự dung tha của Mị Châu sau này Trọng Thủy đã phải đền tội. Đồng thời cụ thể này cũng minh chứng cho tấm lòng trắng trong của Mị Châu, đàn bà không phải kẻ bán nước. Ở đây ta thấy được thái độ xót xa, kính yêu của toàn cầu dành cho người vợ.
Truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy mang dứt thảm kịch: nước mất nhà tan, tình ái vỡ lẽ. Bi kịch mất nước là bài học cảnh giác với địch thủ cho muôn thế hệ sau. Bi kịch tình yêu lại là bài học về việc giải quyết mối quan hệ nam nữ thân việc nước và việc nhà, giữa tứ cách cá nhân với tư cách một con người công dân với giang san, người quen biết.
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Phân tích bi kịch mất nước và bi kịch tình yêu trong truyện An Dương Vương số 2
“Tôi kể ngày xưa chuyện Mị Châu
Trái tim lầm khu vực để trên đầu
Nỏ thần sơ sểnh trao tay giặc
Nên nỗi cơ đồ đắm biển sâu”
(Tố Hữu)
Bốn câu thơ lại gợi nhắc ta xót xa nhớ về câu chuyện bình dân “Truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thuỷ” với hình ảnh một vị vua tài ba trong buổi đầu dựng nước đã đánh tan các cuộc xâm lược ác nghiệt của địch thủ mà chung cuộc lại thất bại một cách đau xót, trong giây phút chủ quan đã để cho việt nam xã tắc tuột khỏi tầm tay, làm cho một bài học đề xuất xương máu khó có thể nào quên.
Đọc “An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thuỷ” ta thật khó giấu nổi niềm xót xa trước thảm kịch mất nước Âu Lạc và cả thảm kịch ái tình của nữ công chúa Mị Châu. Trong truyền thuyết dân dã, An Dương Vương hình thành như một vị vua toàn tài, luôn mang trong mình một ý thức chống giặc ngoại xâm bạo gan mẽ. Nhờ sự cung cấp của thần Kim Quy, ngài đã xây được Loa thành chắc chắn và chế được nỏ thần – một tranh bị cực kì lợi hại, bách phát bách trúng, có thể giết thịt chết hàng nghìn quân giặc.
Năm ấy,Triệu Đà cử binh xâm lược phương Nam, song do Âu Lạc có nỏ thần nên quân Đà thua phệ, bèn xin giao hoà. Không bao lâu sau, Đà tìm cách cầu hôn cho quý ông mình với chị em An Dương Vương. Vua Âu Lạc đã vô tình gả con gái yêu là Mị Châu cho Trọng Thuỷ. Vua ngờ đâu Trọng Thuỷ đã tỉ tê trò chuyện với Mị Châu để nghiên cứu bí mật nỏ thần. Và Mị Châu – một quần chúng phái nữ nhẹ nhàng dạ cả tin đã thành thật giải thích cặn kẽ cho chồng từ cách làm lẫy nỏ đến cách bắn tên, thành lập điều kiện cho Trọng Thuỷ có thể chế nỏ giả, đánh tráo nỏ thần. Ít lâu sau, Trọng Thuỷ giã từ nam nữ với lý bởi vì “tình đôi lứa chồng tất yêu quên lãng, nghĩa phụ thân mẹ quan yếu loại bỏ” và nói láo Mị Châu về phương Bắc thăm phụ thân. Triệu Đà được lẫy nỏ cả mừng bèn cử binh sang tấn công. Vua An Dương Vương không hề hay biết nỏ thần bị đánh tráo, khi giặc tiến sát tới thành vẫn chậm ngồi tiến công cờ, cười mà lại nói rằng “Đà không sợ nỏ thần sao?”. Cho đến khi quân Đà tiến sát lắm rồi, vua thế hệ lấy nỏ thần ra bắn, thấy nỏ đã mất, không còn cách nào khác đành bỏ chạy. Vua đặt Mị Châu ngồi đằng sau con ngựa rồi chạy về phương Nam. Thế là theo lời giao kết, những chiếc lông ngỗng trên áo Mị Châu đã chỉ đường cho Trọng Thuỷ lần theo mà đuổi. Đến đường cùng, vua bèn kêu rằng “Trời hại ta, sứ Thanh Giang ở đâu mau mau lại cứu”. Rùa vàng nổi lên mặt nước, thét bự “kẻ nào ngồi sau ngươi chính là giặc”, Vua tuốt kiếm chém chết Mị Châu và Rùa vàng rẽ nước dẫn vua xuống biển.
Vì sao một mọi người tài trí như vậy lại có thể đánh mất cơ nghiệp phệ lao trong phút chốc? Phải chăng nhà vua đã quá chủ quan khi trong tay có được nỏ thần? Đúng như vậy. Nỏ thần là một trang bị lợi hại, chính nhờ nó cơ mà An Dương Vương đã tấn công thắng quân giặc mà cũng chính bởi nó nhưng mà vua đã trở nên chủ quan khinh địch, mất cảnh giác trước những mưu kế bẩn thỉu của vây cánh xâm lược. Vua cũng đã rất cả tin khi nhận lời cầu hôn của Triệu Đà.
Nước mất nhà tan còn bởi nhà vua không nắm vững nội bộ của mình. Ngài không hiểu hết được tính cách của thanh nữ yêu Mị Châu là con gái công chúa cực kì ngay thật, nhẹ dạ cả tin, không hề mảy may nghi ngờ chồng cho dù là một giây một phút. Nàng đã đích thực yêu Trọng Thuỷ, cũng bởi quá tin yêu vào hắn mà Mị Châu đã vô tình trao cho hắn bí mật việt nam. Nỗi đau mất nước ấy quả thực là quá mập. Nhưng ta lại càng đau xót trước tình yêu thực bụng của bạn nữ công chúa phương Nam.
Mị Châu có cục bộ phẩm chất tốt đẹp của con người phụ đàn bà truyền thống, nhưng mà cũng từ những phẩm chất ấy, bởi đui mù quáng, con gái đã hại phụ thân, hại dân, hại nước. Trước sau thiếu phụ chỉ nghĩ tới Trọng Thuỷ và nao nức của cô gái. Nàng một lòng tin yêu và mến thương chồng. Nàng đã dành cho chồng một tình yêu khôn xiết chân tình và khẩn thiết. Ấy thế mà Trọng Thuỷ – con người vô ơn kia đã nỡ trọng tâm giày đạp lên ái tình đó. Hắn cưới nàng làm gia đình chỉ vì mục đích lợi dụng để lấn chiếm Âu Lạc. Nhưng bởi vì sao Mị Châu quá mê muội ? Sao đàn bà lại có thể bỏ dở những câu nói lạ mắt, ẩn chứa bao hàm ý của Trọng Thuỷ trong lúc nhì loài người chia tay: “Ta nay trở về thăm cha, nếu như đến lúc nhì nước thất hòa, Bắc Nam ngắt quãng, ta lại tìm nàng, lấy gì làm dấu?”. Câu hỏi ấy của Trọng Thuỷ như một gợi nhắc, cảnh báo trước chuyện gì sẽ tới với giang san nữ giới, Nhưng người vợ lại thực thà đáp lại: “Thiếp giữa phận bạn nữ nhi, nếu gặp cảnh biệt ly thì khó khăn khôn xiết. Thiếp có áo gấm lông ngỗng thường khoác trên mình, đi đến đâu sẽ bứt lông nhưng mà rắc ở ngã ba đường để làm dấu, như vậy có thể cứu được nhau”.
Và chính cái dấu lông ngỗng của người vợ đã đẩy nhị cha con vào bước đường cùng. Tại sao trong cái giây phút nguy hiểm ấy, quân Đà đang tiến tấn công thân phụ mình mà người vợ vẫn còn cả tin đến mê muội, đem rắc lông ngỗng trên đường đi làm dấu hiệu báo cho giặc? Để rồi chung cục con gái chiếm được từ thân phụ một cái chết buồn bã tuyệt đỉnh, một cái chết chất chứa bao niềm căm hận, tủi cực, một cái chết cùng bao điều thức tỉnh giấc muộn mằn từ cả phụ thân cô gái và phụ nữ. Liệu Mị Châu có đáng phải chịu hình phạt ấy không ? Thật khó khăn và chua xót cho vua An Dương Vương bởi vì nhát kiếm chém con ấy là ranh giới giữa ái tình nước mãnh liệt và mối tình con tha thiết.
Nhưng cục bộ đều đã muộn. Cảnh “quốc phá gia vong”, cơ nghiệp lớn lao phút chốc chỉ còn mây khói đâu chỉ bởi vì mình sự mê muội của Mị Châu nhưng mà còn bởi vì sự chủ quan khinh địch, mất cảnh giác của chính nhà vua nữa. Vậy con người xưa muốn nói gì cho mới đời sau qua truyền thuyết “An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thuỷ”? Đó là một bài học đề nghị béo lao trong việc bảo vệ quyền chủ quyền tự chủ của dân tộc.
Câu chuyện nhắc nhở chúng ta phải luôn cảnh giác cao trước mọi thần thế thù địch để bảo vệ vui lòng người tình. Chuyện cũng là bài học sâu sắc cho những người ta đang yêu và sẽ yêu. Hãy đừng bởi vì quá yêu nhưng mà trở nên mê muội, đui mù quáng để rồi dẫn tới sự lợi dụng, dối trá trong tình ái. Hãy luôn sống thực lòng với trái tim mình, dành cho nhau tình cảm phát xuất từ đáy lòng. Đừng bao giờ giày xéo lên mối tình của mọi người Đặc biệt như Trọng Thuỷ – một mọi người mánh lới, tham vọng không biết tôn trọng giá trị thực sự và vĩnh hằng trong cuộc sống.
Người xưa đã sáng thi công nên truyền thuyết lịch sử đầy cảm động, xót xa. “Truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thuỷ” vẫn mãi là một câu chuyện, một bài học to lao về bi kịch mất nước và bi kịch tình ái đã từng diễn ra trong lịch sử. Truyền thuyết ấy sẽ còn giữ vững được kể cho muôn mới con cháu đời sau để cùng nhau khắc cốt, ghi vai trung phong, lời dặn dò cảnh giác trước đối phương để bảo vệ quê hương nhà nước, bảo vệ quyền tự do linh nghiệm và nụ cười của mỗi người yêu .
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Phân tích bi kịch mất nước và thảm kịch tình ái trong truyện An Dương Vương số 3
Hẳn là mỗi lần nhắc đến cái nỏ thần chúng ta đều nhớ đến câu chuyện “Truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy”. Câu chuyện ấy như một câu chuyện lịch sử và cũng có những yếu tố hư cấu miêu tả được những buổi đầu dựng nước của ông phụ thân ta. Đọc truyện ta thật khó giấu nổi niềm xót xa trước bi kịch mất nước Âu Lạc và cả thảm kịch mối tình của nàng công chúa Mị Châu.
Trong truyền thuyết dân gian, An Dương Vương xuất hiện như một vị vua toàn tài, luôn mang trong mình một tinh thần chống giặc ngoại xâm khỏe mạnh mẽ. Nhờ sự tương trợ của thần Kim Quy, ngài đã xây được Loa thành bền vững và chế được nỏ thần – một vũ khí cực kỳ lợi hại, bách phát bách trúng, có thể giết chết hàng nghìn quân giặc.
Năm ấy, Triệu Đà cử binh xâm lấn phương Nam, song vì Âu Lạc có nỏ thần nên quân Đà thua Khủng, bèn xin giao hoà. Không bao lâu sau, Đà tìm cách cầu hôn cho quý ông mình với nàng An Dương Vương. Vua Âu Lạc đã vô tình gả cô bé yêu là Mị Châu cho Trọng Thuỷ. Vua nào ngờ Trọng Thuỷ đã tỉ tê thủ thỉ với Mị Châu để tìm hiểu bí mật nỏ thần. Và Mị Châu – một nhân loại chị em nhẹ nhàng dạ cả tin đã thành thật giảng giải cặn kẽ cho chồng từ cách làm lẫy nỏ đến cách bắn tên, desgin điều kiện cho Trọng Thuỷ có thể chế nỏ giả, tiến công tráo nỏ thần. Ít lâu sau, Trọng Thuỷ tạm biệt tổ ấm với lý bởi vì “tình người thương chồng thiết yếu quên béng, nghĩa cha mẹ chẳng thể thải hồi” và nói láo Mị Châu về phương Bắc thăm cha. Triệu Đà được lẫy nỏ cả mừng bèn cử binh sang đánh. Vua An Dương Vương không hề hay biết nỏ thần bị tiến công tráo, khi giặc tiến sát tới thành vẫn thong dong ngồi tấn công cờ, cười mà lại nói rằng “Đà không sợ nỏ thần sao? ”. Cho tới khi quân Đà tiến sát lắm rồi, vua mới lấy nỏ thần ra bắn, thấy lẫy thần đã mất, không còn cách nào khác đành bỏ chạy. Vua đặt Mị Châu ngồi đằng sau con ngựa rồi chạy về phương Nam. Thế là theo lời giao kết, những chiếc lông ngỗng trên áo Mị Châu đã chỉ đường cho Trọng Thuỷ lần theo nhưng đuổi. Đến đường cùng, vua bèn kêu rằng “Trời hại ta, sứ Thanh Giang ở đâu mau mau lại cứu”. Rùa vàng nổi lên mặt nước, thét to “kẻ nào ngồi sau ngươi chính là giặc”, Vua tuốt kiếm chém chết Mị Châu và Rùa xoàn rẽ nước dẫn vua xuống biển.
Vì sao một người ta tài trí như vậy lại có thể tiến công mất cơ nghiệp to lao trong phút chốc? Phải chăng nhà vua đã quá chủ quan khi trong tay có được nỏ thần ? Đúng như vậy. Nỏ thần là một thiết bị lợi hại, chính nhờ nó mà lại An Dương Vương đã tiến công thắng quân giặc mà lại cũng chính do nó mà lại vua đã biến thành chủ quan khinh địch, mất cảnh giác trước những mưu mẹo bẩn thỉu của phe cánh đánh chiếm. Vua cũng đã rất cả tin khi nhận lời cầu hôn của Triệu Đà.
Nước mất nhà tan còn vì vua An Dương Vương không hiểu được cô gái của mình. Ngài không hiểu hết được tính cách của nữ giới yêu Mị Châu là nữ giới công chúa cực kỳ ngay thật, nhẹ nhõm dạ cả tin, không hề mảy may nghi ngờ chồng cho dù là một giây một phút. Nàng đã thực sự yêu Trọng Thuỷ, cũng bởi quá tin cẩn vào hắn nhưng Mị Châu đã vô tình trao cho hắn bí mật giang san.
Bên cạnh bi kịch mất nước còn là thảm kịch tình yêu của Mị Châu và Trọng Thủy. Mối tình Mị Châu – Trọng Thủy là ái tình ngang trái, do đồng thời và đan cài với sự nghiệp giữ nước Âu Lạc là tình ái của nhị con người, nhưng duyên cớ của nó chính là bài học muôn thuở cho những ai muốn đặt tình yêu cá nhân lên trên vận mệnh núi sông, dân tộc, tác mối tình khỏi những mối quan trung ương thường nhật.
Nếu có thể coi quan hệ tình dục Mị Châu – Trọng Thủy là một tình ái thì đó cũng cần thiết là tình yêu phổ quát thủy, vì trong khi Mị Châu ngây thơ hết lòng vì chồng thì Trọng Thủy đã sẵn có mánh lới chiếm bí mật nỏ thần. Trọng Thủy đến Âu Lạc vì mục tiêu duy số 1 đó. Nhưng những ngày ở Âu Lạc, bên cạnh thanh nữ đẹp toàn cầu, ngoan nết, trong lành và tin tưởng. Trọng Thủy đã nảy sinh tình yêu thật sự tâm thành với Mị Châu, cũng là nảy sinh mâu thuẫn thân nhị tham vọng lớn cùng sinh tồn trong quần chúng. # Trọng Thủy, tham vọng thu được nước Âu Lạc và tham vọng trọn tình với trái đất đẹp. Vì vậy, trộm được nỏ thần, về nước để sẵn sàng chiến tranh, Trọng Thủy vẫn muốn tìm lại Mị Châu nhờ dấu lông ngỗng đưa đường, chờ đợi sẽ sống với Mị Châu trên đất Âu Lạc nhưng mà mình làm bá chủ. Nhưng nhì tham vọng đó làm sao có thể dung hòa ! Trọng Thủy có thể vừa chiếm nước Âu Lạc vừa thưởng thức hoan hỉ bên quần chúng phụ nữ biết mình vô tình bán nước được chăng? Rắc lông ngỗng dọc đường chạy loàn, lại một lần nữa Mị Châu đã vô tình hướng dẫn cho quân giặc đuổi theo, vô tình đưa nhì thân phụ con tới địa điểm cùng đường. Nàng chỉ kịp nhận ra sự thật đau lòng đó trước lúc rơi đầu, khi Kim Quy kết tội nữ giới là “giặc”. Cái chết của Mị Châu khiến tham vọng của Trọng Thủy cũng tiêu tan. Vì vậy sau khi công trình, đáng lẽ phải là người ta vui miệng thưởng thức vinh quang thì Trọng Thủy lại tự vẫn bởi vì nỗi “tiếc thương Mị Châu khôn xiết“. Thủy đã tự tử bởi vì cần thiết chỉ chọn một trong nhì tham vọng, chết bởi vì bị giày vò vì tình yêu mâu thuẫn không thể giải quyết nổi trong con người anh. Cái chết đó đã gợi chút xót xa cho toàn cầu. Mối tình giữa Mị Châu – Trọng Thủy trái ngang, giang dở là bởi luôn có thủ đoạn gây chiến của Triệu Đà len lỏi vào. Nếu như Đà đích thực cầu hòa, giả dụ hai nước đều lấy tự do làm trọng, thì tình ái Mị Châu – Trọng Thủy chẳng phải là ái tình dễ nhìn thân trai tài gái sắc sao? Kết thúc bi thiết của tình ái đó có căn do sâu xa từ mưu mô xâm lăng và đã đích thực mang ý nghĩa tố giác chiến tranh.
Mị Châu mang phẩm chất của quần chúng phụ phụ nữ truyền thống. Nhưng cũng vì vậy mà đàn bà đã xây dừng bi kịch cho tổ quốc. Nàng một lòng tin cậy và bi cảm chồng. Nàng đã dành cho chồng một mối tình cực kì thực bụng và tha thiết. Ấy vậy mà Trọng Thuỷ – nhân loại bạc tình kia đã nhẫn tâm tâm giày xéo lên ái tình đó. Hắn cưới nàng làm mái ấm chỉ bởi mục đích lợi dụng để xâm lăng Âu Lạc. Sao thiếu nữ lại có thể bỏ qua những câu nói quái dị, ẩn chứa bao hàm ý của Trọng Thuỷ trong lúc hai người ta chia tay: “Ta nay trở về thăm phụ vương, giả dụ đến lúc nhì nước thất hòa, Bắc Nam ngăn cách, ta lại tìm phái nữ, lấy gì làm dấu?”. Câu hỏi ấy của Trọng Thuỷ như một gợi nhắc, cảnh báo trước chuyện gì sẽ tới với nhà nước thanh nữ, Nhưng chị em lại thực thà đáp lại: “Thiếp thân phận nữ nhi, nếu gặp cảnh biệt ly thì thống khổ khôn cùng. Thiếp có áo gấm lông ngỗng thường khoác trên mình, đi đến đâu sẽ bứt lông mà lại rắc ở ngã ba đường để làm dấu, như vậy có thể cứu được nhau”.
Trong thời phong kiến, không ít nhà Nho đã lấy đạo “tam tòng” để có ý minh oan cho Mị Châu. Họ nói rằng, phụ bạn nữ “xuất giá tòng cu li”, Mị Châu một dạ tin chồng, không giấu giếm Trọng Thủy điều gì là vô tội. Nhưng họ quên rằng, trong một tổ quốc nhiều giặc giã, một đàn bà công chúa lại chỉ biết làm trọn chữ tòng nhưng mà vô tình với vận mệnh nước nhà là có tội. Lời buộc tội gang thép của thần Rùa Vàng “Kẻ ngồi sau lưng con ngựa chính là giặc đó” cũng chính là thái độ giận , thương sáng tỏ của địa cầu Âu Lạc đối với Mị Châu. Nàng Mị Châu thuở đầu chết cũng nhận ra tội vạ của béo của mình và không hề chối tội. Nàng chỉ muốn tỏ bày “Nếu có lòng làm phản, mưu hại phụ vương, chết đi sẽ trở nên cát bụi. Nếu một lòng trung hiếu nhưng bị người ta lừa dối thì chết đi sẽ trở thành châu ngọc để rửa trong sạch mối nhục thù“. Nàng chỉ mong rửa tiếng “bất trung, bất hiếu”, chỉ muốn người hiểu rằng mình “một lòng trung hiếu mà bị lừa dối” chứ không kêu oan, cũng không xin tha tội. Công chúa Mi Châu được quả đât Âu Lạc xưa và thế giới Việt Nam đời đời thương xót bởi vì đã biết tội, dám nhận tội và cam lòng chịu tội. Nếu lấy đạo “tam tòng” để thổ lộ cho Mị Châu, rằng phái nữ chỉ là phận gái, rằng thiếu nữ làm hiền thê chỉ cần phục tòng chồng là đủ thì chính là đã hạ thấp bạn dạng lĩnh và tư cách của bạn nữ công chúa nước Âu Lạc này.
Hình ảnh “ngọc trai – giếng nước” ở phần kết truyện là hình ảnh đẹp. Một số dân chúng cho rằng đó là kết tinh của ái tình phổ biến thủy Trọng Thủy – Mị Châu, bởi vì viên ngọc (vốn là máu Mị Châu chảy xuống biển, trai ăn phải cơ mà thành) đem rửa vào giếng Ngọc (nơi Trọng Thủy đã nhảy xuống tự vẫn) thì càng sạch hơn. Rồi sau đó, mấy chục năm, có một thi sĩ tao nhã cũng đầy mâu thuẫn khi viết về Mị Châu:
“Nước mắt thành mặt trái của lòng tin
Tình yêu đến cùng đường là cái chết
Nhưng quần chúng đẹp dẫu rơi đầu vẫn đẹp
Tình yêu bị dối lừa vẫn ấn tượng tình ái…”
Có phải ái tình bị dối lừa vẫn là một tình ái đẹp? Nói đúng hơn hình ảnh “ngọc trai – giếng nước” là hình ảnh tượng trưng cho sự hóa giữa và gặp lại của hai người ở kiếp sau, đó không phải là biểu tượng của ái tình thường ngày thủy nhưng chỉ là hình ảnh một nỗi oan tình được hóa giải nhưng thôi. Những viên ngọc là máu Mị Châu kết đọng lại sẽ không do bất cứ ngoại cảnh nào nhưng mà đổi màu, nó chỉ càng sáng hơn, đẹp hơn trong thách thức.
Kết thúc ảm đạm của thân phụ con An Dương Vương trong được kể lại trong truyền thuyết mãi mãi là bài học nhắc nhở ý thức công dân của mỗi nhân dân đối với giang sơn. Hình ảnh ngọc trai – giếng nước đã khép lại câu chuyện, nhưng mà đó không phải là thuyết trình của mối tình chung thủy đui quáng của Mị Châu đối với Trọng Thủy mà lại là sự biểu diễn tụ hội số 1 nhận thức về lịch sử và lòng cảm thông sâu sắc của toàn cầu đối với anh hùng này.
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Phân tích thảm kịch mất nước và thảm kịch tình ái trong truyện An Dương Vương số 4
“Truyện An Dương Vương, Mị Châu – Trọng Thủy” là một cách giảng giải nguyên số 1 mất nước Âu Lạc. Nổi bật trong đó còn là hai thảm kịch lớn: bi kịch mất nước và thảm kịch tình ái.
“Truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy” kể về chuyện An Dương Vương sau này xây dứt thành Cổ Loa và được thần Kim Quy tặng cho một chiếc móng để làm nỏ thần. Nỏ thần giúp vua tấn công bại tình địch phương Bắc lấn chiếm. Triệu Đà bị thất bại liền lui quần về chờ thời cơ ăn nhập. Ít lâu sau, Triệu đưa đại trượng phu mình là Trọng Thủy sang cầu thân với Mị Châu – chị em An Dương Vương. Một Gần đây đi, sau này có được lòng tin cẩn của Mị Châu, Trọng Thủy bèn dò hỏi chuyện về chiếc nỏ thần và đánh cắp đem về cho thân phụ. Có nỏ thần trong tay, Triệu Đà đem quân sang tiến công Âu Lạc. An Dương Vương thấy giặc tới tình thật cơ mà vẫn chủ quan vì nghĩ rằng đã có nỏ thần. Thua cuộc, An Dương Vương cưỡi con ngựa đem theo Mị Châu tiến về phía đại dương. Nhưng đi tới đâu thì thấy quân giặc theo đến đấy. Vua cầu cứu thần Kim Quy, thần hiện lên báo rằng: “Giặc ở sau lưng nhà vua đấy”. An Dương Vương tỉnh ngộ, liền rút gươm chém Mị Châu, rồi nhảy xuống đại dương trầm mình. Trọng Thủy tìm theo về lông ngỗng thì thấy xác Mị Châu, hối hận hận mà lại tử tự. Ngày nay, giếng ấy được gọi là giếng Trọng Thủy. Tục truyền lại Mị Châu khi chết, máu chảy xuống đại dương, trai ăn được mới có ngọc châu. Đem ngọc về rửa nước giếng thì thấy sáng mới lạ.
Trước hết là thảm kịch mất nước. Ban đầu, vua An Dương Vương là nhân loại có công trạng thiết kế và bảo vệ non nước Âu Lạc. Vua được sự hỗ trợ của thần Kim Quy đã kiến thiết thành Cổ Loa đảm bảo, chế sản xuất ra nỏ thần để tiến công đuổi quân xâm chiếm của Triệu Đà. Khi ấy, ông là một vị vua anh minh, sáng láng và có tầm nhìn xa trông rộng. Tưởng rằng sông núi sẽ ngày càng thịnh, quả đât được hưởng giàu sang. Nhưng chỉ sự do sự chủ quan mà An Dương Vương đã để mất nước vào tay Triệu Đà.
Bi kịch mất nước của An Dương Vương trước nhất bắt nguồn từ quyết định đồng ý hôn ước của Trọng Thủy và Mị Châu. Không thể đánh bại An Dương Vương, Triệu Đà tìm cách hòa hoãn để nghĩ cách dài lâu. Hắn cho trái đất sang cầu hôn Mị Châu cho Trọng Thủy – đàn ông mình. Vua An Dương Vương cả tin, không hề phòng bị. Theo phong tục Âu Lạc, Trọng Thủy về ở rể. Ở đây, chính An Dương Vương đã rước rắn về nhà, làm lộ bí mật quân nhưng ông lại không hề hay biết. Vua không phòng bị, còn Mị Châu thơ ngây cũng chẳng nghi ngờ. Sau một thời gian thường nhật sống, Mị Châu hết lòng tin tưởng chồng. Trọng Thủy bèn tìm cách dò hỏi về nỏ thần. Biết được bí mật, hắn tìm cách đánh cắp rồi lấy cớ về nước thăm cha để đem nỏ thần về. Nguy cơ mất nước ngày một bự.
Triệu Đà lấy được nỏ thần tức khắc đem quan sang tiến tấn công Âu Lạc. Vua An Dương Vương dù đã nghe tin cơ mà vẫn chủ quan, trung khu lý ỷ lại do cho rằng có nỏ thần. Chính do điều đó nhưng ông đã thất bại trong tay Triệu Đà. Cuối cùng non sông bị lấn chiếm. Sai lầm không còn thời cơ sửa sang. Bản giữa An Dương Vương phải đem theo Mị Châu chạy trốn, bị giặc đuổi giết mổ, tình cảnh vô cùng thảm hại. Phía trước là biển Khủng, phía sau là quân giặc, ông không còn cách nào đành cầu cứu Rùa Vàng. Thần hiện lên cho biết rằng đối phương của ông lại chính là nữ giới Mị Châu: “giặc ở sau lưng nhà vua đấy”. Dù khó khăn cơ mà An Dương Vương vẫn rút kiếm ra chém chết Mị Châu. Sự thức tỉnh giấc bây giờ đã quá muộn màng, tổ quốc đã rơi vào tay giặc.
Tiếp tới là bi kịch ái tình của Mị Châu và Trọng Thủy. Mị Châu – một cô công chúa thơ ngây. Vì mối tình mà lại làm cho non nước rơi vào cảnh khốn đốn. Mị Châu đã không ý thức được bổn phận với giang san. Mà chỉ nghĩ đến hoan lạc của cá nhân. Đó cũng là nghĩ suy thường ngày của những thế giới phụ con gái trong xã hội xưa. Nàng lấy Trọng Thủy theo hôn ước. Trong quá trình phổ thông sống, hai thế giới cực kỳ khoái lạc và hòa thuận. Ngược lại, Trọng Thủy lại là một kẻ âm mưu, tiếp cận với bạn nữ chỉ bởi vì muốn có được bí mật của nỏ thần. Trong suốt những tháng ngày sinh sống, Trọng Thủy dần phát sinh tình cảm với bạn nữ. Tuy vậy, trọng trách giữa một bên là chữ hiếu, một bên là chữ tình khiến Trọng Thủy cực kì mâu thuẫn. Cuối cùng, hắn vẫn chọn chữ hiếu, lừa Mị Châu để đánh cắp nỏ thần đem về cho phụ thân. Thậm chí còn dẫn binh quân nhân theo dấu lông ngỗng để truy hỏi sát An Dương Vương.
Bi kịch ở khu vực, khi đã Mị Châu chết, Trọng Thủy cực kì hối. Hắn đem xác của bạn nữ về chôn trong thành, rồi đâm đầu xuống giếng xưa Mị Châu thường tắm. Trọng Thủy hay Mị Châu đều cần thiết sống hoan lạc bên thế giới mình yêu. Bên cạnh đó, trong thảm kịch ái tình đó cần kể tới một cụ thể giàu ý nghĩa biểu tượng “ngọc trai và giếng nước”. Sau khi chết, máu của Mị Châu chảy xuống biển, trai ăn được thế hệ có ngọc châu. Nếu ta lấy thứ ngọc ấy rửa với nước giếng nơi Trọng Thủy tự vẫn thì ngọc sẽ càng sáng rõ. Chi tiết này nhằm biểu tượng cho ái tình vĩnh cửu. Hay cũng là thuyết trình sự miễn thứ của Mị Châu sau này Trọng Thủy đã phải đền tội. Đồng thời đó cũng là một lời bệnh vực của nhân dân ta cho Mị Châu, nàng không phải kẻ bán nước.
Qua phân tích trên, truyện An Dương Vương, Mị Châu – Trọng Thủy chính là bài học xương máu về vai trò của tinh thần cảnh giác tình địch trong công cuộc bảo vệ nước nhà và ý nghĩa của việc xử lý đúng đắn nhất cho mối quan hệ riêng – phổ thông, cá nhân – cộng đồng.
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Phân tích thảm kịch mất nước và thảm kịch tình yêu trong truyện An Dương Vương số 5
“Tôi yêu truyện cổ nước tôi
Vừa nhân hậu lại vẹn tuyền sâu xa”
Câu thơ của Lâm Thị Vỹ Dạ đã cho thấy ái tình sâu sắc của tác giả đối với những câu chuyện bình dân cổ xưa của dân tộc. Bởi bởi trong mỗi câu chuyện lại chứa đựng rất là nhiều những triết lý nhân sinh về cuộc đời và mọi người. Với thành phầm “An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy”, bình dân đã mang lại sự xót xa về thảm kịch mất nước và bi kịch ái tình. Từ đó, rung lên trong lòng độc giả những dư âm sâu lắng.
Trong truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy, nhì bi kịch đan lồng vào nhau kiến thiết nên một cốt truyện kịch tính, gay cấn cơ mà cũng không kém phần đau thương, xót xa. Cả vua An Dương Vương và công chúa Mị Châu đều rơi vào bi kịch vì chính niềm tin mù quáng của mình. Cả nhì đã lầm lỡ khi tin vào chính kẻ đã lừa mình để cướp Nỏ thần, cướp nước và làm phản lại tình nghĩa người tình chồng. Dân gian thật thâm thúy khi khắc họa những hình tượng nghệ thuật mới lạ, vừa có giá trị nghệ thuật lại vừa có giá trị nhân văn thâm thúy.
Bi kịch mất nước có cội nguồn từ mâu thuẫn ích lợi và tham vọng thân Triệu Đà và An Dương Vương. Với góc nhìn chiến lược, An Dương Vương đã nhìn thấy Cổ Loa là một vùng đất trù mật, tốt tươi có địa hình bằng vận, rộng rãi và thuận tiện cho việc giao doanh gia bán. Bởi vậy, ông quyết định cho dời kinh đô về Cổ Loa và giữ vững sự nghiệp kiến tạo núi sông của thân phụ ông. Được sự hỗ trợ của thần Kim Quy, ông đã xây cất Loa Thành với chín vòng vững chắc, chắc chắn an ninh và cực kỳ vững chãi. Khác biệt, Rùa Vàng còn giúp An Dương Vương tiến công bại quân thù là Triệu Đà với mánh lới xâm lược và cướp nước. Khung cảnh tươi sáng, thịnh của nước Nam sinh ra hết sức bắt mắt với một vị vua anh minh sáng suốt. Vậy nhưng, chưa được bao lâu, toàn bộ địa cầu toàn vẹn và vua An Dương Vương nói riêng bị rơi vào thảm kịch mất nước.
Bi kịch mất nước của An Dương Vương mở đầu bằng việc Vua đồng ý lời cầu hôn của Triệu Đà, gả công chua Mị Châu cho nam nhi của hắn là Trọng Thủy. Triệu Đà là một tên tâm địa tàn độc, sau khi bị bại trận trước An Dương Vương, hắn không cam lòng chịu thua trận và điếm nhục. Bởi vậy, hắn đã tìm đủ mọi cách, thương lượng bằng bao lời ngọt nhạt và mĩ ý hòa hoãn để đưa Trọng Thủy tới cầu thân Mị Châu cơ mà thực chất là dùng cánh mày râu làm điệp báo viên cho mình. Tuy là một vị vua anh minh mà lại do mong muốn tổ quốc được hoà bình cơ mà mang chổ chính giữa thế chủ quan, khinh địch, An Dương Vương đã đồng ý gả bạn nữ cho Trọng Thủy nhưng mà không mảy may nghi ngờ. Ông cục bộ không hề biết, mình đã giao trứng cho ác hiểm và châm ngòi cho bi kịch mất nước.
Tin vào lựa chọn của vua phụ vương, nữ Mị Châu dễ nhìn đã không mảy may nghi ngờ nhân loại chồng của mình. Cùng phổ quát sống dưới một tổ ấm với Trọng Thủy, thiếu nữ rất đỗi chiều chuộng loài người chồng của mình và luôn làm tròn trách nhiệm của một người vợ. Còn Trọng Thủy, hắn vẫn giữ kín bộ mặt thật giả chế tạo của mình nhưng không để cho ai phát hiện. Nhờ vậy, hắn đã tìm được cách đánh cắp Nỏ thần một cách kiêm toàn và chờ cơ hội tấn công bại An Dương Vương.
Không tương tự lần đầu, khi quân Triệu Đà kéo sang xâm lấn lần nhì, An Dương Vương vẫn điềm nhiên chơi cờ do nghĩ rằng không kẻ nào có thể đánh bại được Nỏ thần. Quân của Triệu Đà ngang nhiên xông vào thành vô cùng tăm tối, chúng càn quét khiến cho quần chúng dân điêu đứng. Lúc này, An Dương Vương mới đi tìm nỏ thần mà lại Nỏ thần đã không còn dùng được nữa. Ông đâu có ngờ nỏ thần đã bị tấn công tráo từ lâu. An Dương Vương hoảng loàn hối hả đưa đàn bà Mị Châu đi trốn mà lại quân giặc đã ráo riết đuổi theo phía sau lưng. Ra đến đại dương phệ, bị dồn vào đường cùng, An Dương Vương chỉ còn cách nhờ Rùa Vàng ngoi lên trợ giúp. Thế nhưng, đau lòng thay, nước đã không cứu được, chính phiên bản giữa ông lại phát có mặt bí mật động trời. Hóa ra lâu nay nay Trọng Thủy chính là điệp báo giúp Triệu Đà có được Nỏ thần và đau lòng hơn, chính Mị Châu – nàng ông đã giúp Trọng Thuỷ lấy Nỏ thần, trên đường chạy trốn còn rải lông ngỗng khiến quân giặc tìm tới ông một cách dễ ợt. Quá đau lòng cùng sự thức tỉnh muộn màng, An Dương Vương đã thịt chết phái nữ mình rồi theo thần Kim Quy xuống biển. Đó là sự trả giá cho những tội ác mà lại một vị vua đã thi công cho dân tộc.
Truyền thuyết còn nói về thảm kịch mối tình giữa Mị Châu và Trọng Thuỷ. Mị Châu là thiếu nữ công chúa hồn nhiên, thơ ngây, được sống bao bọc trong nhung lụa và sự cảm thương, che chở của vua thân phụ. Cuộc đời nữ giới bước sang một trang mới khi nghe theo lời vua phụ vương lấy Trọng Thủy làm chồng. Trong những năm tháng thường ngày sống dưới một vợ, cả nhị con người đã nảy sinh trong nhau tình yêu và tình nghĩa hộ gia đình chồng. Mị Châu trải qua những tháng ngày vui mắt, đắm chìm trong tình ái và cảm nhận thứ tình cảm thủy thông thường của một phụ nữ dành cho dân chúng chồng của mình. Chính bởi thế, dù là phái mạnh của kẻ thù nhưng đàn bà vẫn không mảy may nghi ngờ Trọng Thủy. Và có nhẽ, đó chính là những ngày tháng phấn kích nhất của hai quần chúng.
Tuy vậy, ái tình của Trọng Thủy dành cho Mị Châu không đơn thuần và sạch sẽ như nữ dành cho nam nhi. Nếu trước đây, Trọng Thủy cưới Mị Châu chỉ là tuân theo lời căn dặn của vua phụ vương với mánh lới làm nội gián và trộm cắp Nỏ thần thì sau khi, trong chàng đã nảy sinh ái tình với cô công chúa nước Nam. Trong lòng Trọng Thủy hết sức mâu thuẫn thân một bên là tình yêu và một bên là trách nhiệm đối với dân tộc. Và rốt cục, đại trượng phu đã vừa lòng hi sinh tình yêu, làm tổn thương đàn bà đầu ấp tay kề với mình để phục thù cho vua phụ thân. Trọng Thủy đã lừa dối Mị Châu để ăn cắp nỏ thần và bí mật đưa về nước. Khi chiến tranh xảy ra, khoác dù rơi vào hoàn cảnh ngàn cân treo tua tóc nhưng Mị Châu vẫn không hề nghi ngờ quả đât chồng của mình. Ngược lại, thiếu phụ vẫn tin tưởng, rải lông ngỗng trên đường đi trốn để mong Trọng Thủy sẽ tới cứu mình. Nhưng chao ôi, Mị Châu quả thực đáng thương khi đặt niềm tin của mình lẫm nơi. Đến cuối cùng, nữ mới nhận ra sự thực bởi khái quát đã muộn. Tình yêu sâu nặng mà chị em dành cho đại trượng phu hóa thành nỗi đau và niềm hận thù không bao giờ nguôi cạn. Từ một đôi trai tài gái sắc bỗng dưng biến thành bi kịch tình ái khiến ai cũng cực kì thương xót.
Để hóa giải cho bi kịch mối tình và đặt ra bài học nhân sinh có ý nghĩa, dân dã đã nghĩ ra chi tiết ngọc trai – giếng nước. Trọng Thủy sau khi Mị Châu chết đã quá đau lòng nhảy xuống giếng tự sát. Máu Mị Châu chảy xuống biển trở thành ngọc châu, khi lấy ngọc ấy rửa với nước giếng vị trí Trọng Thủy tự vẫn thì càng sáng đẹp hơn. Chi tiết này cho thấy tấm lòng của Mị Châu và Trọng Thủy, dù đã hóa kiếp mà mối tình của họ vẫn còn mãi. Bởi suy cho cùng, ái tình không có lỗi, lỗi là ở hoàn cảnh hai thế giới quá khác nhau mà thôi. Trọng Thủy chung cuộc cũng phải trả giá. Dù mang về ích lợi cho dân tộc nhưng con trai mãi mãi mất đi đàn bà mình nâng niu nhất, cũng như tình ái sâu nặng số 1 cuộc đời. Hình ảnh ngọc trai – giếng nước qua đó cũng thân oan cho tấm lòng trong trắng của cô bé Mị Châu và mô tả sự dung tha của dân gian đối với nữ giới.
Truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy mặc dù mang nhị bi kịch: Bi kịch mất nước và bi kịch mối tình cơ mà vẫn để lại cho độc giả những bài học nhân sinh thâm thúy về người ta và cuộc đời.
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Phân tích bi kịch mất nước và thảm kịch tình ái trong truyện An Dương Vương số 6
Hẳn là mỗi lần nhắc tới cái nỏ thần chúng ta đêu nhớ đến câu chuyện An Dương Vương, Mị Châu và Trọng Thủy. Câu chuyện ấy như một câu chuyện lịch sử và cũng có những yếu tố hư cấu biểu lộ được những buổi đầu dựng nước của ông cha ta. Đọc truyện ta thật khó giấu nổi niềm xót xa trước bi kịch mất nước Âu Lạc và cả thảm kịch mối tình của bạn nữ công chúa Mị Châu.
Trong truyền thuyết dân dã, An Dương Vương có mặt như một vị vua toàn tài, luôn mang trong mình một ý thức chống giặc ngoại xâm táo bạo mẽ. Nhờ sự viện trợ của thần Kim Quy, ngài đã xây được Loa thành vững chắc và chế được nỏ thần – một thiết bị hết sức lợi hại, bách phát bách trúng, có thể giết mổ chết hàng nghìn quân giặc.
Năm ấy, Triệu Đà cử binh xâm lăng phương Nam, song do Âu Lạc có nỏ thần nên quân Đà thua bự, bèn xin giao hòa. Không bao lâu sau, Đà tìm cách cầu hôn cho quý ông mình với con gái An Dương Vương. Vua Âu Lạc đã vô tình gả cô gái yêu là Mị Châu cho Trọng Thuỷ. Vua ngờ đâu Trọng Thuỷ đã tỉ tê thầm thĩ với Mị Châu để mày mò bí mật nỏ thần. Và Mị Châu – một quần chúng. # đàn bà nhẹ nhàng dạ cả tin đã thành thật giảng giải cặn kẽ cho chồng từ cách làm lẫy nỏ đến cách bắn tên, sản xuất điều kiện cho Trọng Thuỷ có thể chế nỏ giả, tấn công tráo nỏ thần. Ít lâu sau, Trọng Thuỷ từ biệt mái ấm với lí bởi “tình gia đình chồng tất yêu quên khuấy, nghĩa thân phụ mẹ thiết yếu loại trừ” và nói láo Mị Châu về phương Bắc thăm thân phụ. Triều Đà được lẫy nỏ cả mừng bèn cử binh sang tiến công. Vua An Dương Vương không hề hay biết nỏ thần bị đánh tráo, khi giặc tiến sát đến thành vẫn chậm trễ ngồi tấn công cờ, cười mà nói rằng “Đà không sợ nỏ thần sao ? ”. Cho tới khi quân Đà tiến sát lắm rồi, vua mới lấy nỏ thần ra bắn, thấy lẫy thần đã mất, không còn cách nào kì cục đành bỏ chạy. Vua đặt Mị Châu ngồi đằng sau chú ngựa rồi chạy về phương Nam. Thế là theo lời giao kết, những chiếc lông ngỗng trên áo Mị Châu đã chỉ đường cho Trọng Thuỷ lần theo cơ mà đuổi. Đến đường cùng, vua bèn kêu rằng “Trời hại ta, sứ Thanh Giang ở đâu mau mau lại cứu”. Rùa tiến thưởng nổi lên mặt nước, thét bự “kẻ nào ngồi sau ngươi chính là giặc”, Vua tuốt kiếm chém chết Mị Châu và Rùa đá quý rẽ nước dẫn vua xuống đại dương.
Vì sao một người tài trí như vậy lại có thể tiến công mất cơ nghiệp to lao trong phút chốc ? Phải chăng nhà vua đã quá chủ quan khi trong tay có được nỏ thần ? Đúng như vậy. Nỏ thần là một vũ trang lợi hại, chính nhờ nó cơ mà An Dương Vương đã tiến công thắng quân giặc cơ mà cũng chính vì nó mà lại vua đã trở nên chủ quan khinh địch, mất cảnh giác trước những mưu mẹo bẩn thỉu của anh em xâm lăng. Vua cũng đã rất cả tin khi nhận lời cầu hôn của Triệu Đà.
Nước mất nhà tan còn do nhà vua không nắm vững nội bộ của mình. Ngài không hiểu hết được tính cách của nữ yêu Mị Châu là con gái công chúa khôn xiết ngay thẳng, nhẹ nhõm dạ cả tin, không hề mảy may nghi ngờ chồng cho dù là một giây một phút. Nàng đã đích thực yêu Trọng Thuỷ, cũng vì quá tin yêu vào hắn nhưng mà Mị Châu đã vô tình trao cho hắn bí mật quốc gia. Sẽ là khuyết điểm nếu nghiên cứu bi kịch mất nước của An Dương Vương cơ mà không khám phá thảm kịch tình ái Mị Châu – Trọng Thủy. Mối tình Mị Châu – Trọng Thủy là tình yêu trái ngang, bởi vì song song và đan cài với sự nghiệp giữ nước Âu Lạc là tình yêu của nhì quả đât, mà lại căn do của nó chính là bài học muôn đời cho những ai muốn đặt ái tình cá nhân lên trên vận mệnh quốc gia, dân tộc, tác tình yêu khỏi những mối quan trọng tâm chung.
Nếu có thể coi quan hệ nam nữ Mị Châu – Trọng Thủy là một mối tình thì đó cũng bắt buộc là mối tình thông thường thủy, bởi trong khi Mị Châu thơ ngây hết dạ vì chồng thì Trọng Thủy đã sẵn có mánh khoé chiếm bí mật nỏ thần. Trọng Thủy đến Âu Lạc do mục tiêu duy nhất đó. Nhưng những ngày ở Âu Lạc, bên cạnh nữ đẹp loài người, ngoan nết, vệ sinh và tin cậy. Trọng Thủy đã phát sinh tình ái thật sự thực bụng với Mị Châu, cũng là nảy sinh mâu thuẫn thân nhị tham vọng phệ cùng tồn tại trong quả đât Trọng Thủy, tham vọng chiếm được nước Âu Lạc và tham vọng trọn tình với người ta đẹp. Vì vậy, trộm được nỏ thần, về nước để chuẩn bị chiến tranh, Trọng Thủy vẫn muốn tìm lại Mị Châu nhờ dấu lông ngỗng đưa đường, hi vọng sẽ sống với Mị Châu trên đất Âu Lạc nhưng mình làm bá chủ.
Nhưng nhì tham vọng đó làm sao có thể dung hòa! Trọng Thủy có thể vừa chiếm nước Âu Lạc vừa trải đời náo nức bên quần chúng. # đàn bà biết mình vô tình bán nước được chăng? Rắc lông ngỗng dọc đường chạy loạn, lại một lần nữa Mị Châu đã vô tình hướng dẫn cho quân giặc đuổi theo, vô tình đưa nhì phụ thân con tới chỗ cùng đường. Nàng chỉ kịp nhận ra sự thật đau lòng đó trước lúc rơi đầu, khi Kim Quy kết tội phụ nữ là “giặc”. Cái chết của Mị Châu khiến tham vọng của Trọng Thủy cũng tiêu tán. Vì vậy khi đã vật phẩm, đáng lẽ phải là quần chúng. # háo hức đề xuất vinh quang quẻ thì Trọng Thủy lại tự tận vì nỗi “nuối tiếc thương Mị Châu khôn cùng“. Thủy đã trầm mình do tất yêu chỉ chọn một trong nhị tham vọng, chết bởi bị giày vò vì ái tình mâu thuẫn quan yếu giải quyết nổi trong nhân dân anh.
Cái chết đó đã gợi chút xót xa cho toàn cầu. Mối tình giữa Mị Châu – Trọng Thủy éo le, giang dở là vì luôn có thủ đoạn gây chiến của Triệu Đà len lách vào. Nếu như Đà thực sự cầu hòa, giả dụ nhị nước đều lấy chủ quyền làm trọng, thì ái tình Mị Châu – Trọng Thủy chẳng phải là tình ái đẹp đẽ giữa trai tài gái sắc sao? Kết thúc u ám của ái tình đó có duyên do sâu xa từ mánh khoé đánh chiếm và đã thực thụ mang ý nghĩa cáo giác chiến tranh.
Mị Châu có hoàn toàn phẩm chất tốt đẹp của địa cầu phụ nữ giới truyền thống, mà lại cũng từ những phẩm chất ấy, vì đui mù quáng, nữ đã hại thân phụ, hại dân, hại nước. Trước sau phái nữ chỉ nghĩ đến Trọng Thuỷ và thú vui của bạn nữ. Nàng một lòng tin yêu và mến yêu chồng. Nàng đã dành cho chồng một mối tình khôn xiết chân tình và tha thiết. Ấy thế mà Trọng Thuỷ – thế giới phụ tình kia đã đang tâm vai trung phong giày đạp lên tình ái đó. Hắn cưới phụ nữ làm người thương chỉ do mục đích lợi dụng để lấn chiếm Âu Lạc. Nhưng do sao Mị Châu quá mê muội? Sao cô gái lại có thể bỏ dở những câu nói kì lạ, ẩn chứa bao hàm ý của Trọng Thuỷ trong lúc nhì quần chúng chia tay: “Ta nay trở về thăm phụ thân, nếu như tới lúc nhị nước thất hoà, Bắc Nam cách quãng, ta lại tìm cô gái, lấy gì làm dấu?”. Câu hỏi ấy của Trọng Thuỷ như một gợi nhắc, cảnh báo trước chuyện gì sẽ tới với giang san thiếu nữ, Nhưng thanh nữ lại ngay thật đáp lại: “Thiếp thân phận thiếu nữ nhi, nếu gặp cảnh li tán thì khổ cực cực kỳ. Thiếp có áo gấm lông ngỗng thường khoác trên mình, đi đến đâu sẽ rứt lông mà lại rắc ở ngã ba đường để làm dấu, như vậy có thể cứu được nhau”.
Trong thời phong kiến, không ít nhà Nho đã lấy đạo “tam tòng” để có ý minh oan cho Mị Châu. Họ nói rằng, phụ thiếu nữ “xuất giá tòng cu li”, Mị Châu một dạ tin chồng, không giấu giếm Trọng Thủy điều gì là không có tội. Nhưng họ quên rằng, trong một nhà nước nhiều giặc giã, một thanh nữ công chúa lại chỉ biết làm trọn chữ tòng cơ mà vô tình với vận mệnh việt nam là có tội. Lời buộc tội gang thép của thần Rùa Vàng “Kẻ ngồi sau lưng con ngựa chính là giặc đó” cũng chính là thái độ giận, thương sáng tỏ của loài người Âu Lạc đối với Mị Châu. Nàng Mị Châu ban đầu chết cũng nhận ra lỗi lầm của mập của mình và không hề chối tội. Nàng chỉ muốn bộc bạch “Nếu có lòng phản bội, mưu hại thân phụ, chết đi sẽ trở nên cát bụi. Nếu một lòng trung hiếu mà bị nhân dân lừa dối thì chết đi sẽ trở nên châu ngọc để rửa trong lành mối nhục thù“. Nàng chỉ mong rửa tiếng “bất trung, bất hiếu”, chỉ muốn thế giới hiểu rằng mình “một lòng trung hiếu mà bị lừa dối” chứ không kêu oan, cũng không xin tha tội. Công chúa Mi Châu được trái đất Âu Lạc xưa và thế giới Việt Nam đời đời thương xót bởi đã biết tội, dám nhận tội và cam lòng chịu tội. Nếu lấy đạo “tam tòng” để phân bua cho Mị Châu, rằng phụ nữ chỉ là phận gái, rằng phụ nữ làm người nhà chỉ cần phục tùng chồng là đủ thì chính là đã hạ thấp bản lĩnh và bốn cách của nữ công chúa nước Âu Lạc này.
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Phân tích bi kịch mất nước và bi kịch ái tình trong truyện An Dương Vương số 7
Truyền thuyết kể về những sự kiện, anh hùng lịch sử hay di tích, cảnh vật địa phương thông qua những hư cấu nghệ thuật nhưng mà trong lớp vỏ tuyệt diệu lại hàm chứa những yếu tố đính liền với lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc. Truyện An Dương Vương và Mị Cliâu – Trọng Thủy là một truyền thuyết đặc sắc của dân chúng Việt cổ, mang những giá trị lịch sử và nhân bản sâu sắc. Tác phẩm đã phản ảnh thảm kịch mất nước và bi kịch tình yêu của những dân chúng thời xa xưa.
Cốt lõi lịch sử trong truyền thuyết Truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy là quá trình dựng nước và mat nước thời An Dương Vương. Tất cả chủ đạo lịch sử đó đã được tái hiện bằng một trí mường tưởng no đủ, một cô’t truyện ngặt nghèo với nhiều yếu tố kì diệu để thành lập nên vẻ đẹp Đặc biệt của truyền thuyết này.
Phần đầu của truyền thuyết kể về chuyện An Dương Vương xây thành, chế nỏ giữ nước Âu Lạc, phần còn lại kể về bi kịch ái tình Mị Châu – Trọng Thủy và việc nước Âu Lạc rơi vào tay Triệu Đà. Trong truyền thuyết này có hai câu chuyện đã được kết cấu theo kiểu dáng lồng ghép là sự đan xen giữa bi kịch mất nước và bi kịch ái tình. Chính bi kịch mất nước gây ra nên bi kịch mối tình và bi kịch ái tình mở đường cho thảm kịch mất nước.
Xuất hiện trong sản phẩm, An Dương Vương là một vị vua trí dũng, nôì nghiệp vua Hùng rời đô về Việt Thường. Tại đây nhà vua sai quân sớm hôm đắp thành để bảo vệ, giữ giàng nước nhà. Hành động này của An Dương Vương chứng tỏ ông là một vị vua minh mẫn, biết nhìn xa trông rộng. Nhưng bi ai thay, thành đất cứ đắp tới đâu lại lở đến đó. An Dương Vương phải lập bè bạn cầu khấn thần linh. Tấm lòng lo nghĩ cho sơn hà của nhà vua đã làm cho bách thần cảm động. Vì vậy, Rùa Vàng – sứ giả Thanh Giang – đã hiển linh giúp An Dương Vương chế tạo Loa Thành. Chi tiết này cho thấy quả đât đã đề cao tính đúng đắn trong công cuộc xây thành, đắp lũy bảo vệ sơn hà của An Dương Vương, vì vậy, không chỉ trái đất mà cả thần linh cũng giúp đỡ. Không dừng lại ở đó, trí dũng và tinh thần cảnh giác, chông giặc ngoại xâm của An Dương Vương còn được biểu diễn trong câu hỏi về kế sách giữ nước của nhà vua với sứ giả Thanh Giang: “Nay nếu có giặc ngoài thì lấy gì nhưng chông?”. Tấm lòng lo cho vận nước của An Dương Vương đã được đền đáp thích đáng. Rùa Vàng cho nhà vua chiếc vuốt của mình để làm lẫy nỏ. Chiếc nỏ “Linh quang Kim Quy thần cơ” bởi Cao Lỗ sáng chế đã làm nên quân Triệu Đà thua Khủng, phải xin cầu hòa. Chiếc nỏ ấy biến thành vật bảo quốc của An Dương Vương. Nhà vua đã biết nắm lấy cường độ của vũ trang để bảo vệ tổ quốc. Ông đã xong sứ mạng của một vị vua hợp lòng dân.
Tuy nhiên, trong khi cảnh nguy hiểm xâm chiếm luôn rình rập thì nhà vua lại ỷ vào cường độ của nỏ thần nên chủ quan và mất cảnh giác. Ông gả cô bé là công chúa Mị Châu cho đại trượng phu Triệu Đà là Trọng Thủy. Có lẽ vua nhân từ muốn mượn duyên tình trẻ con để hóa giải tham vọng xâm chiếm, để thắt chặt tình hòa hữu. Nhưng cũng chính vì vậy mà ông đã mất cảnh giác, mở cửa cho giặc vào nhà. Đó là nguyên nhân sâu xa của việc mất nước. Đến khi bí mật nỏ thần bị lộ, Trọng Thủy xin về nước, Triệu Đà kéo quân sang tấn công Âu Lạc, An Dương Vương vẫn chưa mở mắt. Ông vẫn mải mê tấn công cờ và tiến công mất luôn cả sự thông minh, thức giấc táo của dân chúng nắm giữ vận mệnh non sông để rồi tiếng cười chưa hoàn tất, ông đã phải chứng kiến thảm cảnh mất nước. Lòng bao dung của trái đất đã không để An Dương Vương phải chết. Ông được Rùa Vàng đón xuống đại dương sâu bởi hành động thức tỉnh dù muộn mằn nhưng kiên quyết đứng về phía lợi quyền của nhà nước, của người ta. Nhưng nỗi đau của ông thì vẫn còn đó – nỗi đau của một quần chúng. # đã tấn công mất nước nhà cơ mà mình dày công giữ giàng, dựng xây; nỗi đau của một trái đất cha phải thẳng thừng chém chết cô phụ nữ nhưng mình rất đỗi yêu thương, tin cậy. Sự chủ quan đã cuốn An Dương Vương vào bi kịch mất nước và chính nhà vua đã vô tình đẩy Mị Châu nhún nhường sâu vào thảm kịch tình ái, để rồi phụ nữ phải chết trong mối oan tình tức tưởi.
Không chỉ phản ảnh thảm kịch mất nước của Thục Phán An Dương Vương, Truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy cũng là một câu chuyện tình ái oan nghiệt và đầy nước mắt. Bi kịch ấy được khởi nguồn từ khi Trọng Thủy nghe lời vua thân phụ vờ yêu thương Mị Châu để dò xét bí mật nỏ thần. Nhưng Mị Châu bởi vì quá chiều chuộng và tin tưởng Trọng Thủy nên đã bận bịu sai lầm. Nàng giấu vua phụ thân, tự ý đưa Trọng Thủy vào nơi đặt nỏ thần để Trọng Thủy biết được bí mật quyện lực của quân đội Âu Lạc và tấn công tráo lẫy nỏ. Khi Trọng Thủy thác kế về thăm vua cha, Mị Châu quá cả tin bởi vì bị mối tình làm mờ lí trí tới nỗi chẳng còn đủ thức giấc táo để nhận ra những ẩn ý trong lời nói của Trọng Thủy khi giã từ. Nàng không đủ sáng suốt để nhận ra trong những lời chia tay của chồng đã tiềm tàng hiểm họa đao binh: “Ta nay về thăm vua thân phụ, nếu như đến lúc hai nước thất hòa, Bắc Nam xa rời, ta lại tìm phái nữ, lấy gì làm dấu?”. Ngay cả đến khi Triệu Đà kéo quân sang tấn công Âu Lạc, trên đường chạy giặc Mị Châu vẫn không mở mắt. Nàng vẫn chỉ nghĩ đến hí hửng cá nhân khi rắc lông ngỗng như lời hẹn ước, để tới nông nỗi nhì phụ vương con bị giặc dồn đuổi đến đường cùng không còn lối thoát.
Trước họa mất nước, Mị Châu vẫn khao khát gặp lại chồng mình dù Trọng Thủy là con của quân thù cướp nước. Vì tình cảm cá nhân nhưng Mị Châu đã vô tình tiếp tay cho giặc dẫn tới việc nưởc Âu Lạc rơi vào tay phụ thân con Triệu Đà. Bởi thế, dẫu bị lừa dối dẫn tới sai lầm, chị em vẫn bị cáo buộc là giặc và vẫn phải chết để trả giá cho sai lầm ấy. Mị Châu đáng trách mà lại tội ác của cô bé phát xuất từ niềm tin trong tình nghĩa người trong gia đình chồng nên dù cho có đui quáng đi chăng nữa thì ái tình của chị em vẫn đáng yêu và sạch. Nàng đã yêu hết mình và dâng hiến hết mình cho ái tình. Chính bởi vậy, vô tình Mị Châu đã trở nên thủ phạm góp phần làm nên tấm bi kịch nước mất nhà tan và cũng tự trói buộc mình vào bi kịch ái tình đầy tính liệu và lật mặt của phụ thân con Triệu Đà. Mị Châu không làm tròn được hai chữ “trung” và “hiếu” mà lại nữ đã để lại cho đời một chữ “tình” đẹp tươi. Tấm lòng bao dung của nhân dân đối với Mị Châu đã chế tạo nên sự hóa thân thật đẹp: “Mị Châu chết ở bờ biển, máu chảy xuống nước, trai sò án phải đều trở nên hạt châu”. Hình ảnh ngọc trai vừa gợi nỗi đau nhưng mà cũng là một lời thân oan, chiêu tuyết cho Mị Châu.
So với Mị Châu, Trọng Thủy có cốt truyện trung khu lí phức hợp hơn. Vì vua cha, do nhà nước, bởi tham vọng xâm chiếm, Trọng Thủy phải vờ chiều chuộng Mị Châu mà lại sau đó hắn lại thực sự yêu phái nữ. Dẫu vậy, bởi vì chữ hiếu, do mục đích xâm lấn Âu Lạc, vì dã trọng tâm của vua phụ vương, Trọng Thủy vẫn làm phản Mị Châu. Vì thế, trong lời căn dặn Mị Châu ban sơ về nước, ta cảm thu được sự day dứt của Trọng Thủy. Hấn bị dằn vặt giữa chữ tình và chữ hiếu bởi vì ý thức được hậu quả của việc trở về sông núi với bí mật nỏ thần là nhị nước sẽ thất hòa, người nhà chồng li tán nhưng mà sống theo lí tưởng của kẻ làm trai trong xã hội phong kiến, Trọng Thủy đã không chọn tình nghĩa vợ chồng. Nhưng hắn vẫn hi vọng thành phầm của trận đấu sẽ giúp mình có được mối tình. Khát vọng hí hửng cá nhân ấy hiện lên rõ nét trong ao ước tìm lại được Mị Châu khi nhị nước thất hòa. Nhưng khi ảo tưởng tiêu tán, tình ái mất, Trọng Thủy hối hận, bế tắc và khiêu vũ xuống giếng tự vẫn. Chúng ta thấy rằng, đúng ra sau này item, thôn tính được Âu Lạc, Trọng Thủy phải là địa cầu niềm phần khởi hưởng vinh quang quẻ nhưng hắn lại vội vàng tự sát. Mâu thuẫn giữa một bên là tham vọng nhận được Âu Lạc và một bên là sự day chấm dứt bởi mình đã làm phản lại tấm lòng thuần khiết của Mị Châu đã khiến Trọng Thủy day hoàn thành, hối và trẫm mình.
cũng có thể nói, cả Mị Châu và Trọng Thủy đều là nạn nhân của chiến tranh. Sự ngang trái trong ái tình của họ thuyết trình ở địa điểm khi Trọng Thủy đến với Mị Châu chỉ do mục đích tiến công cắp bí mật nỏ thần thì Mị Châu lại yêu thương anh ta thật lòng; khi Trọng Thủy thật lòng yêu thương Mị Châu, ân hận, hốì cải thì cũng là lúc người vợ coi hắn là địch thủ. Vì vậy, chi tiết kì ảo ngọc trai – giếng nước ở cuối truyện không phải là biểu tượng của một mối tình phổ quát thủy, nó chỉ minh chứng cho tấm lòng tinh khiết của Mị Châu và sự bao dung của nhân loại đôi với những việc làm của phái nữ. Câu chuyên tình của Mị Châu – Trọng Thủy phải chăng là lời giảng giải cho căn do và nhằm xoa dịu nỗi đau mất nước? Bi kịch tình ái này giúp ta hiểu rằng thế giới bắt buộc đui quáng bởi tình riêng nhưng quên đi nghĩa vụ công dân, nghĩa vụ đôì với quốc gia. đặc biệt, mừng quýnh, ái tình bắt buộc đạt được nhờ những mánh khoé, lo liệu. Bằng truyền thuyết Truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy, địa cầu ta đã đúc rút những bài học xương máu từ lịch sử của chính dân tộc mình. Đó là bài học giữ nước và bài học về môi tình dục giữa cá nhân và dân tộc, giữa mừng húm riêng tư và nghĩa vụ công dân. Để giữ nước không chỉ cần có vũ trang mạnh dạn mà còn cần một ý thức cảnh giác cao độ, không được ỷ vào thành cao, hào sâu nhưng mà chủ quan khinh địch, không được ngủ quên trong thắng lợi. Ta còn thấy được sự phán xét nghiêm ngặt, công minh của quả đât đôi với cha con An Dương Vương, Triệu Đà và Trọng Thủy. Những nhân vật này đều phải trả giá cho sai lầm của mình. An Dương Vương thì mất nước, phải ra tay chém chết con gái của mình và đi vào lòng biển sâu; Mị Châu bị chém đầu; Trọng Thủy nhảy xuống giếng Loa Thành tự vẫn còn Triệu Đà thì mất cánh mày râu.
Truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy đã cho thấy những nét đặc sắc nghệ thuật của thể hình dạng truyền thuyết. Đó là mốì quan hệ mật thiết giữa chính yếu lịch sử và hư cấu nghệ thuật chu đáo trí tưởng tượng bay bổng của toàn cầu. Trí mường tượng và sự thực ấy được diễn đạt qua hàng loạt các cụ thể kì ảo. Trước tiên, đó là anh hùng cụ già, sứ thần Thanh Giang – Rùa Vàng. Đây là những hero thần linh hỗ trợ An Dương Vương xây thành, đắp lũy, chế nỏ để bảo vệ đất nước đồng thời cũng là loài người phán xét công minh khi phụ thân con An Dương Vương biếng nhác, mất cảnh giác để việt nam rơi vào tay giặc. Chiếc nỏ thần được tạo từ vuốt Rùa Vàng, một mũi tên chết hàng vạn giặc cũng là một cụ thể huyền ảo. Đó là vật hộ nước. Nó trình diễn tầm tất yêu của thiết bị trong công cuộc giữ nước. Vì vậy, mất nỏ đồng nghĩa với mất nước.
Truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy là một truyền thuyết đặc sắc, điển hình cho hệ thông truyền thuyết Việt Nam. Tác phẩm chứa đựng giá trị nhân văn và nêu lên những bài học sâu sắc không bao giờ cũ đối với muôn đời – bài học về tinh thần cảnh giác, luôn thức giấc táo để giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng, việc nước và việc nhà.
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Phân tích bi kịch mất nước và thảm kịch tình yêu trong truyện An Dương Vương số 8
“Tôi kể ngày xưa chuyện Mị Châu
Trái tim nhầm nơi để trên đầu
Nỏ thần sơ ý trao tay giặc.
Nên nỗi cơ đồ đắm đại dương sâu”
(Tố Hữu – Tâm sự)
An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy là truyền thuyết đẹp của mọi người xưa với chủ đề dựng nước và giữ nước, để lại cho đời sau bài học cảnh giác chính trị sâu sắc và thấm thía. Nhưng có phải câu chuyện chỉ chứa dựng một tấn thảm kịch là mất nước hay không? Theo tôi câu chuyện là sự đan xen thân cả nhị thảm kịch mất nước và ái tình. Chính khi thảm kịch mất nước đã thành lập nên bi kịch tình ái và bi kịch mối tình đã mở đường cho thảm kịch mất nước.
Cả nhì tấn bi kịch bắt đầu khi An Dương Vương để tình riêng lấn át góc nhìn của một đấng minh chủ. Vua cho Trọng Thủy về ở rể cơ mà chẳng mảy may nghi ngờ không chút cảnh giác chính bởi thế vua đã để Trọng Thủy có cơ hội mang mầm tai họa vào bén rễ trong Loa Thành. Sự mất cảnh giác đã cuốn vua vào thảm kịch mất nước bởi vì chính tay mình chế tạo nên; nhưng mà hậu quả đâu chỉ dừng lại ở đó, chính An Dương Vương đã đẩy cô gái là công chúa Mị Châu vào con đường thảm kịch tình yêu.
Truyền thuyết lưu lại bởi dương gian sau gọn gàng, nhưng mà chủ quản của bi kịch khá rõ ràng: mối tình dục dâu gia giữa nhị nhà vốn dĩ đối địch đã tiềm tàng những bất trắc khó lường. Vậy mà lại An Dương Vương lại ” vô tình” gả cô bé yêu cho Đấng mày râu kẻ địch. Theo mạch kể của truyền thuyết không tồn tại lí giải nguyên cớ sâu xa khiến Mị Châu tiếp tay cho Trọng Thủy cướp mất nỏ thần Kim Quy. Mị Châu rõ ràng đã quá yêu và tin Trọng Thủy đến với mình bằng tình ái tình thực vì vậy thanh nữ đã nghe theo mọi lời nói của y.
Nếu xét dưới góc độ của một tôi con, bạn nữ mang tội đáng chết bởi vì một tôi con nhưng dám đem bí mật quân sự non nước ra nói với nhân loại không giống nhau, số 1 là khi đó lại là nam nhi của kẻ địch. Đáng trách hơn, Mị Châu bị tình ái làm mờ lí trí tới nỗi chẳng còn đủ tỉnh táo để nhận ra những ẩn ý trong lời nói của Trọng Thủy khi giã biệt để cảnh báo với vua cha. Nàng không còn đủ tỉnh táo để nhận ra trong lời chồng tiềm tàng hiếm họa đao binh: “Ta nay về thăm thân phụ, giả dụ đến lúc nhì nước thất hòa bắc nam chia cắt, ta tìm lại nữ biết lấy gì làm dấu?” Mị Châu mê muội tới mức lưỡng lự hỏi duyên do biệt li, lại chỉ chăm bẳm nghĩ về sự sum hiệp bồ. Rồi ngay cả khi giặc của Triệu Đà đuổi đến vị trí nữ vẫn chẳng chịu trở về với thực tại, mãi đắm mình trong cơn nằm mơ, vẫn còn rắc lông ngỗng làm dấu cho Trọng Thủy đuổi theo. Đặt tình riêng lên trên vận mệnh giang san như vậy quả là vô cùng đáng trách, đáng phê phán. Nhưng nếu nhìn dưới góc độ của một quần chúng. # bạn nữ thường ngày đang yêu một cách cuồng nhiệt thì quả thật Mị Châu đã làm tròn bổn phận với con tim của mình. Dù cho có đui mù quáng đi chăng nữa thì mối tình của Mị Châu thật dễ nhìn và trong lành. Nàng yêu hết mình và hiến dâng toàn bộ cho thế giới mình yêu. Chính bởi lẽ đó mà lại Mị Châu biến thành thủ phạm góp phần giúp cho tấn bi kịch mất nước đồng thời cô bé cũng là nạn nhân “cùng bất đắc dĩ” của tấn thảm kịch tình ái. Mị Châu chẳng làm tròn chữ trung chữ hiếu, chị em chỉ để lại duy số 1 cho đời riêng một chữ tình nhưng mà thôi.
Đằng sau câu chuyện tình yêu của Mị Châu – Trọng Thủy là cả một thủ đoạn về chính trị ám muội của Triệu Đà và không ai khác kẻ trực tiếp thực hiện mánh khoé đó lại chính là Trọng Thủy. Ngay từ khi bước chân vào Loa Thành y đã lộ nguyên hình là tên nội gián khuất tất, y luôn đặt nhiệm vụ điệp viên lên nhất. Bỉ ổi hơn, y lợi dụng luôn cả phái nữ thơ ngây để thi hành gian kế. Xét về bạn dạng chất Trọng Thủy là một kẻ tham lam và gian giảo. Chính điều đó giúp y xong xuất sắc nhiệm vụ được giao, y đã làm tròn cả chữ trung lẫn chữ hiếu. Nhưng đáng tiếc nuối thay Trọng Thủy lại lỡ đánh rơi mất chữ tình. Trái với Mị Châu, Trọng Thủy để cái đầu lạnh làm nguội trái tim mình. Những chủ động đầy suy tính của y giúp y thi công nên cái bẫy đưa phụ vương con Mị Châu vào thảm kịch mất nước mà từ thủ phạm hắn biến thành nạn nhân của chính mình trong tấn thảm kịch mối tình.
Có thể bạn quan tâm: » 20 Điều quan trọng nhất để có một tình yêu bền vững
An Dương Vương mất nước từ sự thiếu cảnh giác, khinh địch của mình. Bản thân vua mong mỏi sự chủ quyền giữa nhì non sông, dứt cảnh chiến tranh binh đao từ mối tình trẻ mỏ. Nhưng éo le thay điều đó lại kiến thiết nên khe hở cho những toan tính của phụ vương con Triệu Đà len lỏi vào. Bản thân An Dương Vương cũng phải gánh chịu bi kịch khi phải tuốt gươm trừng phạt kẻ làm phản là chính đàn bà yêu của mình. Nhà vua đứng trên quyền lợi sông núi mà gạt bỏ tình riêng, chủ động ấy rất được mọi người coi trọng qua cách xử lí của dân gian: Rùa xoàn rẽ nước cho vua xuống hồ. Mị Châu phải trả giá cho sự nông nổi của mình mà lại nữ giới cũng kịp thức thức giấc để nhận ra bi kịch đớn đau. Một nhân dân chị em ngây thơ trong sạch xinh xắn bị phản bội, rút cuộc đã nhận ra kẻ địch dù đã quá muộn mằn. Cái nhìn nhân hậu của trái đất ta đã dành cho Mị Châu sau khi để nữ giới hóa thành ngọc thạch, máu hóa thành ngọc trai ở biển đông. Mị Châu thật đáng trách nhưng cũng thật đáng thương. Truyền thuyết không chỉ kể lại trang sử mất nước mà còn chứa đựng cả cái nhìn kính yêu cho giới tính – khi mối tình phải đối mặt với âm mưu.
Trọng Thủy đã phải trả giá cho sự lừa dối khi hắn chỉ còn mang được xác Mị Châu về mai táng. Với kẻ cướp nước, nhân loại ta không để cho hắn chiếm đoạt và giữ vững lừa mị Mị Châu. Nhưng điều đáng nói ở đây là cái chết lao đầu xuống giếng của Trọng Thủy và chấm dứt câu chuyện: “Người đời sau mò được ngọc trai ở biển Đông lấy nước giếng nhưng mà rửa thì thấy sạch sẽ đính”. Sự lừa dối của Trọng Thủy là lời cảnh thức giấc trần gian: Chỉ có ái tình thực bụng thế hệ được đền đáp ăn nhập, ái tình không bao giờ đồng hành với những thủ đoạn lo liệu thấp hèn, với tham vọng cướp nước.
Có thể bạn quan tâm: » Tình yêu người cao và người thấp
Truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy muôn đời vẫn còn giá trị từ ý nghĩa nhân bản, từ bài học cảnh giác đến lời nhắc nhở về cách giải quyết cái phổ biến và cái riêng, việc nước và việc nhà. Truyền thuyết ấy như ta vẫn biết chứa đựng bài học mất nước sâu sắc, bài học mất nước là chính và không ai có thể phủ nhận, nhưng mà chỉ nhắc đến bi kịch mất nước thôi là chưa đủ nhưng mà còn ẩn sâu thảm kịch ái tình còn nhiều tranh cãi…
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Đăng bởi: Thảo Cư Tê
Từ khoá: 8 Bài văn phân tách bi kịch mất nước và bi kịch mối tình trong truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy (lớp 10) hay hàng đầu
Xem đính tại Youtube Phân tích nhân vật An Dương Vương trong Truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy
🔖 Đăng ký khóa học của thầy cô VietJack giá từ 250k tại:
📲Tải app VietJack để xem các bài giảng khác của thầy cô. Link tải:
☎️ Hotline hỗ trợ: 084 283 4585
Phân tích nhân vật An Dương Vương trong Truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy – Văn mẫu lớp 10
Video bài học hôm nay, cô hướng dẫn các em Phân tích nhân vật An Dương Vương trong Truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy của Văn mẫu 10. Theo dõi bài học cùng cô để học tốt hơn nhé!
Đăng kí mua khóa học của thầy tại:
Học trực tuyến tại:
Fanpage:
#vietjack, #vanmau10, #phantichnhanvatanduongvuong
▶ Danh sách các bài Văn mẫu lớp 10 – Cô Lê Minh Nguyệt:
▶ Danh sách các bài giải SGK Hóa học 10 – Cô Phạm Thu Huyền:
▶ Danh sách các bài giải SGK Tiếng Anh 10 – Cô Nguyễn Thanh Hoa:
▶ Danh sách các bài giải SGK Toán học 10 – Cô Ngô Hoàng Ngọc Hà:
▶ Danh sách các bài giải SGK Vật Lý 10 – Thầy Lê Xuân Vượng:
Bạn đang xem: » 8 Bài văn phân tích bi kịch mất nước và bi kịch tình yêu trong truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy (lớp 10) hay nhất