14 Tháng Một, 2023

9 Bài văn Phân tích vẻ đẹp tình yêu truyền thống và hiện đại trong bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh (Ngữ văn 12) hay nhất

Rate this post



“Sóng” là bài thơ tiêu biểu của Xuân Quỳnh. Qua hình tượng sóng, Xuân Quỳnh mô tả cụ thể, sinh động khát vọng tình ái với những cung bậc tình cảm giàu sang và vẻ đẹp trọng tâm hồn của thế giới phụ cô gái trong tình ái, hồn nhiên sống động, thu hút nồng nàn, đôn hậu, thủy phổ biến. Tình yêu trong “Sóng” vừa mang thuộc tính tế nhị, kín đáo của truyền thống vừa rất sôi nổi, mãnh liệt khôn cùng tiến bộ. Dưới đây là những Bài văn Phân tích vẻ đẹp ái tình truyền thống và văn minh trong bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh (Ngữ văn 12) hay số 1 nhưng mà chúng mình đã sưu tầm và tổng hợp.

Có thể bạn quan tâm: » Hồ Vô Cực Đà Lạt – Nơi Tình Yêu Bắt Đầu

Bài tham khảo số 1

“Làm sao sống được nhưng không yêu

Không nhớ không thương một kẻ nào”

Những vần thơ của Xuân Diệu thật đáng phải suy ngẫm. Cuộc sống sẽ mất đi một phần ý nghĩa của nó nếu thiếu vắng ái tình. Ngoài ra thẩm thấu được điều đó, Xuân Quỳnh cũng đã yêu và gửi gắm mối tình của mình vào trong thơ ca. Bài “Sóng” là một minh chứng cho điều đó. Nổi bật là vẻ đẹp truyền thống và thanh tao của mọi người phụ thiếu phụ trong bài thơ sóng đã biểu lộ hoàn toàn những cung bậc cảm xúc của nhân dân phụ thanh nữ khi yêu. Đồng thời, ta nhận thấy rõ quan niệm mối tình của phụ nữ sĩ Xuân Quỳnh.

Xuân Quỳnh là một nhân loại nghệ sĩ tuấn kiệt. Bà chẳng những là một diễn viên múa chuyên nghiệp mà lại còn là một thi sĩ có đẳng cấp mặn mà, thiết tha. “Sóng” là một trong những bài thơ tình hay nhất của Xuân Quỳnh, được viết vào năm 1967, tại bãi biển Diêm Điền (Thái Bình), in trong tập “Hoa dọc hào chiến đấu” (1968). Bài thơ đã khắc họa thành công vẻ đẹp trọng điểm hồn của quả đât phụ chị em trong mối tình qua hình tượng “sóng”. Vẻ đẹp ấy vừa mang nét truyền thống, vừa mang vẻ cao nhã.

Vẻ đẹp truyền thống của người phụ chị em trong bài thơ sóng được biểu lộ coi ngó: Nỗi nhớ trong tình ái; Sự thủy phổ quát, son sắt trong mối tình; Sự dịu dàng, đượm đà, quyến rũ, giàu nàng tính trong mối tình.

Vẻ đẹp hiện đại của nhân dân phụ thiếu phụ trong bài thơ sóng được biểu thị trông nom: Chủ động, trực tiếp thanh minh nỗi nhớ; Sự mãnh liệt, to gan lớn mật trong mối tình; Tình yêu hòa tan vào hồ béo của cuộc đời.

Xuân Quỳnh đã mượn hình tượng sóng để khắc họa rõ nét trung khu tình của quần chúng phụ nữ khi yêu:

“Dữ dội và dịu êm

Ồn ào và yên ổn lẽ”

Những trạng thái chuyển động thất thường, đối chọi của con sóng cũng chính là những trạng thái đối cực của trái đất phụ cô bé trong tình yêu. Xuân Quỳnh đã ranh mãnh thành lập nghệ thuật đối nghịch để trình diễn trung ương tính của trái đất phụ thiếu nữ khi yêu: Lúc mãnh liệt, cuồng nhiệt, say đắm, cũng có lúc mặn mà, dịu dàng, đầy người vợ tính. Những sắc thái trọng tâm lý ấy là một phẩm chất muôn thuở của nhân loại khi yêu. Tuy rằng cảm xúc ấy có những lúc đối chội, mâu thuẫn nhau nhưng nó cùng thống số 1 hài hòa trong tính cách của mọi người phụ nữ đang yêu.

Tình yêu truyền thống không chỉ biểu thị ở những cung bậc cảm xúc đối chọi nhau mà lại còn biểu lộ ở nỗi nhớ nhau da diết, liên miên:

“Con sóng dưới lòng sâu

Con sóng trên mặt nước

Ôi con sóng nhớ bờ

Ngày đêm không ngủ được”

“Nhớ ai bồi hồi bồi hồi, như đứng đống lửa, như ngồi đống than” (Trích). Tình yêu trong ca dao đã diễn đạt rõ nỗi nhớ. Vẻ đẹp trọng điểm hồn của quần chúng phụ thiếu nữ trong bài “Sóng” hình như cũng từng bắt sâu vào nguồn cội dân tộc qua những lời ca dao ấy. Tình yêu luôn đi cùng với nỗi nhớ, Đặc trưng là khi xa rời. Những con sóng mang trong mình nỗi nhớ cồn cào. Và nỗi nhớ ấy bao trùm cả không gian, thời gian: Ngày – đêm; dưới lòng sâu hay trên mặt nước. Nỗi nhớ mãnh liệt, da diết của sóng khi phải xa bờ cũng tựa biển như nỗi nhớ của người phụ người vợ dành cho người ta mình yêu. Qua phép nhân hóa hình tượng sóng và bờ, Xuân Quỳnh đã gián tiếp biểu thị nỗi nhớ đau đáu trong trái tim, trung tâm hồn của quả đât phụ nữ giới đang yêu.

Tình yêu của nhân loại phụ cô bé vừa nồng thắm, ham, vừa đượm đà, dịu dàng và cũng vừa thủy thường ngày duy số 1:

“Dẫu xuôi về phương bắc…Dù muôn vời cách quãng”

Trong vũ trụ của tình yêu, người phụ nữ giới chỉ có một phương duy số 1 “phương anh”. Lời khẳng định ấy đã bộc lộ sự thủy bình thường, kiên định của em đối với anh. Đất trời có bốn phương nam – bắc – tây – đông như kéo dài không gian xa rời giữa nhị hoàng hậu nhau.

Dù vậy, nhân loại phụ nàng trong thơ của Xuân Quỳnh vẫn luôn có niềm tin vào ái tình thực sự. Dù có bao nhiêu trở ngại, ngăn cách đi nữa thì tình yêu ấy chỉ gắn thêm bền chặt chứ không nứt rạn bao giờ. Cũng như những con sóng, dù có trải qua sóng gió đến đâu thì chung cục nó cũng sẽ cập bờ vậy đó. Niềm tin tuyệt đối vào một tình ái đảm bảo là vẻ đẹp của mối tình theo quan niệm truyền thống.

Nếu ở hai câu thơ đầu trong khổ thơ thứ hàng đầu, con người đọc đã cảm nhận rõ nét khát vọng ái tình bắt mắt trong trung tâm hồn của loài người phụ cô bé, thì khép lại khổ thơ, những khát vọng ấy càng trở nên mãnh liệt, kết thúc khoát hơn:

“Sông không hiểu nỗi mình

Sóng tìm ra tận bể”

Trái tim của trái đất phụ phụ nữ đang yêu vốn dĩ đã rộn rực, mãnh liệt. Ấy vậy mà Xuân Quỳnh còn diễn giả thâm thúy và thế hệ mẻ hơn cái cung bậc cảm xúc đó. Tình yêu trong thơ bạn nữ sĩ không chấp nhận được sự thông thường, gầy hẹp. Trái tim yêu đương phải hướng tới cái to lao và chuẩn bị vượt qua mọi trở ngại để hướng ái tình thực thụ. Cũng như con sóng kia luôn khao khát tự nhận thức, khám phá mình. Nó trở nên quyết liệt, khi “sông không hiểu nổi mình”, con sóng sẽ tìm ra tận bể, tìm tới với sự bao dung, rộng lớn hơn.

Khác với địa cầu phụ đàn bà xưa, địa cầu phụ phái nữ trong thơ Xuân Quỳnh cũng tương tự con sóng. Họ chủ động và khỏe mạnh trong tình ái. Họ không còn cam chịu, nhẫn nhục nữa nhưng sẽ vượt qua rào cản để tìm lấy một trung ương hồn đồng điệu cho mình. Thể thơ năm chữ được dùng phù hợp đã biểu lộ được sự ngừng khoát, lạc quan, quyết liệt của thế giới phụ nữ giới trên hành trình kiếm tìm mừng rỡ thực sự của đời mình. Qua đó, ta cảm nhận được cái tình và cái tình trong cách khắc họa thơ của chị em sĩ Xuân Quỳnh.

Người phụ thanh nữ trong bài thơ không chỉ gián tiếp mô tả nỗi nhớ qua hình tượng sóng. Bởi chăng sóng chưa bằng lòng được cảm xúc, tâm tư của cái tôi trữ tình, bởi vì vậy mà thi sĩ đã trực tiếp thanh minh nỗi lòng của mình:

“Lòng em nhớ tới anh

Cả trong mơ còn thức”

Người phụ phụ nữ trong mối tình luôn khao khát tìm tới bờ bến vui lòng. Do vậy, họ không còn để cho những con sóng kia nói hộ lòng mình nữa. Họ phải trực diện đối mặt với những cảm xúc từ tận đáy lòng mình “Lòng em nhớ đến anh”. Nỗi nhớ ấy không chung tí nào cả. Nó len lỏi cả trong tiềm thức của hero trữ tình. Rõ ràng, “anh đã chiếm trọn cả Tâm – Trí” (Trích).

Điều khác lạ thi công nên vẻ đẹp tân tiến của quần chúng phụ con gái trong bài thơ “Sóng” đó chính là khát vọng ái tình vĩnh hằng, ý nghĩa, nhưng mà thế giới phụ bạn nữ hướng tới. Họ không chỉ dám sống hết mình với tình yêu mà lại còn khao khát tình yêu bé nhỏ xíu của mình chan hòa với tình ái rộng to của cuộc sống:

“Làm sao được tan ra

Thành trăm con sóng bé dại

Giữa đại dương lớn mối tình

Để ngàn năm còn vỗ”

Chỉ có một vài con sóng bé nhoi thì không thể giúp cho hồ rộng bự. Đại dương là nơi giao hội của trăm vạn con sóng. Thấm thía được quy biện pháp ấy, Xuân Quỳnh đã nhận ra chỉ có sự hiến dâng, hòa nhập mối tình cá nhân quần chúng vào ái tình cuộc sống béo lao, thì nó mới có thể trường tồn mãi mãi.

Hai chữ “tan ra” đã biểu lộ cái khát vọng hòa làm một của đàn bà sĩ. Người ta có thể dễ quên lửng đi một con sóng nhỏ nhắn nhỏ dại, một tình ái cá nhân ích kỷ. Nhưng chẳng ai lại quên được cả hồ rộng phệ và cái tình ái hòa vào hồ bự của cuộc sống kia. Hồn thơ trẻ trung, sôi nổi mà lại cũng hết mực trằn trọc, suy bốn của Xuân Quỳnh đã cho thấy vẻ đẹp thánh thiện của nhân loại phụ cô gái trong tình yêu.

Thông qua hình tượng “sóng”, Xuân Quỳnh đã thể hiện sản phẩm vẻ đẹp truyền thống và thanh lịch của nhân dân phụ bạn nữ trong mối tình. Qua ngòi bút điêu luyện của mình, thiếu nữ sĩ đã cho con người đọc một tầm nhìn thế hệ hơn, tinh tế hơn trong tình yêu. Đọc “Sóng” của Xuân Quỳnh, người ta đọc luôn tìm thấy những giá trị mới mẻ mà thi sĩ đã gửi gắm. Càng đọc bài thơ, ta càng say, say với cái mối tình nồng thắm, thủy thông thường của người ta phụ phái nữ và say với cả cái tinh yêu chủ động, quyết liệt của họ.

image 9 bai van phan tich ve dep tinh yeu truyen thong va hien dai trong bai tho song cua xuan quynh ngu van 12 hay nhat 164690904836760

Bài tham khảo số 2

“Sóng” là bài thơ tiêu biểu của Xuân Quỳnh. Qua hình tượng sóng, Xuân Quỳnh biểu hiện cụ thể, sinh động khát vọng mối tình với những cung bậc tình cảm sang giàu và vẻ đẹp trung ương hồn của quả đât phụ nàng trong ái tình, hồn nhiên chân thật, ham mê nồng thắm, đôn hậu, thủy phổ biến. Tình yêu trong “Sóng” vừa mang tính chất tế nhị, kín đáo của truyền thống vừa rất sôi nổi, mãnh liệt vô cùng sang trọng.

“Tình yêu mang thuộc tính truyền thống như tình yêu muôn thuở” là ái tình đính liền với những đặc điểm cảm xúc, tình cảm có tính quy chính sách. Đó là quy biện pháp tình cảm thường gặp trong tình ái của đồng nghiệp như nhớ nhung, giận hờn, khao khát. Tình yêu “tiến bộ” là mối tình đề cao cái tôi cá nhân, đề cao những cảm xúc, khao khát mãnh liệt vượt qua những giới hạn. Đó là cá tính dạn dĩ mẽ của con người phụ thanh nữ thế kỷ nhị mươi bứt phá những nhỏ tuổi hẹp đời thường để tới với ái tình rộng to mông mênh. Hiện đại ở đây đính thêm liền với quan niệm mối tình độc lập chứ không phải là thụ động như tình yêu truyền thống.

Trước hết, “Sóng” bộc lộ một mối tình có thuộc tính truyền thống như tình ái muôn thuở”.

Tình yêu ấy có nhiều trạng thái diễn giả, khi lặng lẽ dịu êm, hiền hòa, êm dịu. Đó là chất cô bé tính – một phẩm chất di truyền từ ngàn đời ở phụ nữ giới. Khi lại ồn ào, dữ dội với những ghen tuông tuông, hờn giận vô cớ (cung bậc muôn đời khi yêu). Hai trạng thái cảm xúc ấy “Dữ dội – dịu êm/Ồn ào – lặng lẽ” là đối cực của sóng mà lại cũng là những cảm xúc nội trung ương đầy rối rắm, mâu thuẫn mà lại cũng rất thống số 1 hài hòa trong trọng điểm hồn của nhân loại phụ phụ nữ khi yêu:

“Dữ dội và dịu êm

Ồn ào và yên ổn lẽ”

Hai trạng thái đối nghịch này cùng sống sót trong nhân thể thống số 1 là sóng, khiên sóng luôn dạt dào, không bao giờ đứng yên. Phép nhân hóa “Sóng tìm ra tận bể” gợi liên tưởng sóng như có ý thức, có khát vọng tìm tới cái rộng lớn, mông mênh. Những đặc điểm này của sóng đã có “từ ngày xưa và ngày sau vẫn thế”, cách nói khẳng định, nhấn bạo phổi, đây là phiên bản chất muôn thuở của sóng.

Cách trình diễn những trạng thái thất thường của sóng gợi lên những khát vọng ái tình trong vai trung phong hồn đầy bí ẩn của mọi người đàn bà. Khi bồng bộn, sôi nổi, khi kín đáo thâm thúy, vừa thú vị vừa tỉnh giấc táo, vừa nồng thắm, vừa âm thầm, vừa mãnh liệt vừa ngàn lần yếu mềm. Điểm gặp gỡ đồng điệu và kì quái thân sóng và hero trữ tình “em” cho thấy sóng chính là ẩn dụ của “em”, của khát vọng ái tình nhiều thao thức mà lại hưng phấn vô bờ. Sóng tự ngàn năm vẫn từ sông ra bể, từ giới hạn chật hẹp đến không gian rộng phệ.

Trái tim quần chúng nữ khi yêu cũng tự nhận thức được những bất định khác lại thường của lòng mình, khao khát vượt ra giới hạn chật hẹp trơ trẽn của cái tôi cá nhân, tìm tới sự rộng mập bao la của ái tình thương cũng như hành trình của sóng từ sông ra bể. Hình ảnh ẩn dụ này cũng gợi đến những khát khao, suy bốn, trăn trở trong trái tim xốn xang, rộn rực tình yêu của thế giới thiếu phụ.

Tình yêu truyền thống bắt buộc thiếu nỗi nhớ thương và sự thủy thường nhật. Nếu thủy phổ quát là thước đo của mối tình thì nỗi nhớ lại là sinh khí của tình ái:

“Con sóng dưới lòng sâu

Con sóng trên mặt nước

Ôi con sóng nhớ bờ

Ngày đêm không ngủ được

Lòng em nhớ tới anh

Cả trong mơ còn thức”

Khổ thơ trùng điệp hình ảnh những con sóng, gợi nỗi nhớ nồng cháy với nhiều cung bậc. Có khi, mặt hồ Khủng lao như đại dương cả, có lúc lại da diết, liên hồi với thời gian, ngày đêm không ngủ được, lại có lúc trải rộng tha thiết với không gian phương Bắc, phương Nam và lại có lúc cũng không giấu nổi nỗi khắc khoải như con sóng nổi trên mặt nước. Và đôi lúc, nỗi nhớ cũng chìm sâu trong trằn trọc, nhớ quay quắt trong lòng như con sóng ngầm dưới đại dương sâu.

Không chỉ “nhớ anh, hướng về anh, nghĩ về anh” tình yêu đã lấp đầy con tim, khối óc, biến thành lẽ sống, trở nên khát vọng của cả cuộc đời. Hình ảnh sóng được nhân hóa mang “tình em” và “nỗi nhớ” của em thật thi vị. Từ cảm “ôi” ra đời thân dòng thơ như một tiếng lòng giật rung giữa niềm nhớ nhung da diết. Nỗi nhớ được biểu đạt trực tiếp qua ẩn dụ sóng đã da diết, sóng nhờ bờ hôm mai, sóng ru, sóng vỗ, sóng vẫn thao thức với thời gian. Nỗi nhớ ấy thiên nhiên, hồn nhiên, si mê nhưng mà dường như vẫn chưa đủ nhưng mà còn được trình bày trực tiếp qua nỗi nhớ của anh hùng trữ tình “em”:

“Lòng em nhớ tới anh

Cả trong mơ còn thức”

Cấu trúc thơ thay đổi, cả bài là những khổ tứ dòng, nỗi nhớ lại được bộc lộ bằng khổ thơ sáu dòng, đã phơi lộ cái tôi riêng của toàn cầu người vợ sĩ – một nỗi nhớ ngập tràn lòng yêu. Nó nồng cháy, mặn mòi hơn cả nỗi nhớ của sóng với bờ do nó không chỉ sống sót trong tinh thần, cơ mà nghe đâu còn len lách vào trong tâm thức, thâm nhập cả vào trong giấc mơ “cả trong mơ còn thức”.

Nỗi nhớ ấy chế tạo độ bền cho lòng phổ biến thủy:

“Dẫu xuôi về phương bắc

Dẫu ngược về phương nam

Nơi nào em cũng nghĩ

Hướng về anh – một phương”

Điệp từ “dẫu” như khẳng định bao nhiêu thử thách, đớn đau phải vượt qua dù không gian mở mang đa chiều “phương bắc phương nam” đầy cách xa trắc trở, dù thiên nhiên trời đất đổi thay “xuôi bắc ngược nam” mà chỗ nào có “anh”, với“em”“hướng về anh một phương” bằng tình ái thủy bình thường, duy số 1. Nỗi nhớ ở đây cồn cào, da diết, thiết yếu nào yên, cấp thiết nào nguôi. Nó cuồn cuộn dạt dào như những con sóng liên hồi dai diết vô hồi vô hạn. Nhịp thơ trong suốt bài gợi tới nhịp của sóng. Nhưng rõ số 1, sôi nổi hàng đầu, mãnh liệt hàng đầu chính là ở đoạn thơ này.

Trong tình ái, trái đất phụ người vợ luôn giữ một trái tim tràn lạc quan. Niềm tin ấy đặt vào những con sóng đại dương. Sóng ở mãi tận thân vô cùng, gặp muôn nghìn bão tố mà lại chung cuộc “Con nào chẳng đến bờ/Dù muôn vời đứt quãng” thì cuối cùng em tin ái tình của chúng ta sẽ tới được cùng nhau.

Không chỉ mang nét đẹp truyền thống, ta còn cảm nhận được vẻ đẹp chổ chính giữa hồn đầy thanh lịch. Đó là sự bạo dạn bạo, hành động bộc bạch những khát khao yêu đương mãnh liệt và giật động rạo rực trong lòng mình. Ở đây không còn sự tiêu cực, kì vọng (như trong truyền thống) nữa. Nếu “Sông không chịu hiểu mình” thì sóng chấm dứt khoát từ bỏ nơi chật hẹp đó, “tìm ra tận bể”, đến với cái cao rộng, bao dung:

“Sông không hiểu nổi mình

Sóng tìm ra tận bể”

Tình yêu văn minh chính là khao khát tự lý giải bạn dạng giữa và khao khát được dâng hiến và hy sinh. Trong mối tình, để hiểu được mình thì thật khó khăn bởi ái tình là một trạng thái trung tâm lý khác nhau thường, đầy bí ẩn và thần diệu, nó có những điều khoản riêng của con tim nhưng mà lý trí phổ biến cần thiết lý giải được:

“Trước muôn trùng sóng bể

Em nghĩ về anh, em

Em nghĩ về biển phệ

Từ chỗ nào sóng lên?

Sóng bắt đầu từ gió

Gió bắt đầu từ đâu?

Em cũng ngần ngừ nữa

Khi nào ta yêu nhau”

Điệp ngữ “em nghĩ” diễn đạt sự thao thức suy bốn của nhân loại chị em trước câu hỏi nguồn gốc của sóng giống như câu hỏi cội nguồn của mối tình. Đó là câu hỏi của muôn đời và muôn người ta nhưng chưa bao giờ có lời đáp nguyên vẹn. Thi sĩ Xuân Diệu, ông hoàng của thơ tình đã phải mượn cảm hứng lãng mạn để lý giải tình yêu đó sao:

“Làm sao giảng nghĩa được mối tình

Có khó gì đâu một buổi chiều

Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt

Bằng hương nhè nhẹ nhõm gió hiu hiu”

Hay Hàn Mặc Tử cũng thế, nhà thơ viết rằng:

“Xin hãy làm thinh chớ nói nhiều

Để nghe dưới đáy nước hồ reo

Để nghe tơ liễu giật trong gió

Và để nghe trời cắt nghĩa yêu”

Bởi tình ái là một tình cảm đẹp rất thật cơ mà khó nói nên lời, cảm thấy rất rõ mà không dễ nắm bắt. Câu hỏi “Gió bắt đầu từ đâu?” không phải không giảng giải được cơ mà “em cũng do dự nữa” lại là cái lắc đầu bé nhỏ nhẹ nhàng, đẹp tươi, đầy thiếu nữ tính trước những cung bậc huyền bí của tình ái. Xuân Quỳnh đã nắm bắt được một trạng thái trung ương hồn rất chân thật, có tính tầm thường cho mọi người nhà và diễn tả nó thật duyên dáng. Tình yêu hao hao gió trời, sóng bể, cũng tự nhiên, hồn nhiên, bất ngờ và khó hiểu như thiên nhiên. Có thể nói, đây là cách phát hiện tình yêu rất bạn nữ tính, trực cảm, kiểu dáng Xuân Quỳnh.

Trước Xuân Quỳnh, có nhẽ chưa thế giới phụ phụ nữ nào nói về ái tình bằng những lời khẩn thiết, nồng cháy cháy bóng như thế. Những khát vọng yêu đương của quần chúng. # bạn nữ trong thơ được trình bày mãnh liệt mà lại cũng thật giản dị: sóng chỉ khao khát tới bờ, cũng như “em” mong gặp được “anh”. Tình yêu của nhân dân cô bé ở đây trong lành, mãnh liệt, tha thiết, giản dị, thủy thường nhật, một mối tình hết mình và quên mình. Đó là điều rất thế hệ mẻ cả trong đời lẫn trong thơ thời ấy. Khát vọng ái tình trong thơ Xuân Quỳnh không chỉ da diết khi còn trẻ, mặc cả sau này, sau khi nếm trải nỗi đau, bế tắc trong tình yêu thì khát vọng tình ái trong thơ Xuân Quỳnh vẫn tha thiết, giàu yêu kính. Trong bài “Tự hát” (1984) chị viết:

“Em trở về đúng nghĩa trái tim em

Là máu giết mổ, đời thường ai chẳng có

Vẫn ngừng đập lúc cuộc đời không còn nữa

Nhưng biết yêu anh cả khi chết đi rồi”

“Sóng” với Xuân Quỳnh không chỉ là biểu tượng của khát vọng tình ái nhưng mà còn là phương luôn thể để bà biểu thị những suy tứ về cuộc đời, tình cảm:

“Ở ngoài kia đại dương

Trăm nghìn con sóng đó

Con nào chẳng tới bờ

Dù muôn vời cách quãng”

“Sóng vỗ bờ” là một chân lý cần yếu không gì thay đổi. Trên biển mênh mông có biết bao nhiêu con sóng và biết bao nhiêu trắc trở nhưng mà trăm ngàn con sóng vẫn tới bờ. Thế nhưng:

“Cuộc đời tuy dài thế

Năm tháng vẫn đi qua

Như hồ kia dẫu rộng

Mây vẫn bay về xa”

Cuộc đời tuy dài nhưng mà không phải cực kì, như biển mập mênh mông nhưng mà không phải bất tận. Xuân Quỳnh rất mẫn cảm với sự lưu loát của thời gian, ý thức về thời gian lắp với nỗi âu lo, dù vậy, hero trữ tình trong thơ đã có cách ứng xử tích cực: âu lo cơ mà không mấy thất vọng, cơ mà chỉ khao khát nắm lấy khoái lạc trong ngày nay, sống hết mình, mãnh liệt với mối tình để vượt qua và công trình sự hữu hạn của thời gian và đời người ta:

“Làm sao được tan ra

Thành trăm con sóng gầy

Giữa hồ phệ tình yêu

Để ngàn năm còn vỗ”

Tan ra để hòa vào đại dương to của tình yêu, biển béo của vui vẻ vĩnh hằng. Bởi với Xuân Quỳnh, cách để sống mãi là sống với ái tình của mình. Ước muốn ấy của bà vừa dịu dàng, đôn hậu, vừa nồng thắm khẩn thiết. Bài thơ khép lại cơ mà nhì hoàng hậu hình tượng “sóng – bờ, em – anh” vẫn đan cài vào nhau, ngời sáng một vẻ đẹp vĩnh hằng của tình yêu.

Với thể thơ năm chữ linh hoạt, bài thơ có hào kiệt gợi âm điệu dạt dào, vừa là cái từng nhịp của sóng biển, vừa là cái khắc khoải của sóng lòng với nhiều cung bậc cảm xúc. Xuân Quỳnh đã rất tài giỏi trong việc ngắt nhịp, phối âm bằng trắc như những nhịp sóng khi dịu êm, lờ ngờ, khi dồn dập, dữ dội và nó cũng gợi đến những sự khắc khoải của sóng lòng. Phương thức công ty ngôn từ, hình ảnh sáng gây ra hòa trộn thanh âm, nhịp điệu của sóng với những trăn trở, khát khao, nhớ thương, giận dỗi đan xen thông thạo trong cõi lòng của người thiếu phụ khi yêu cũng sản xuất nên một yếu tố nhạc tính của thơ.

Hình tượng ẩn dụ “sóng” là một sáng xây dựng kì lạ của Xuân Quỳnh. “Sóng” ở đây là những khát vọng ái tình của “em” – của mọi người nữ với những cảm xúc tình cảm phong túc, phức tạp.

9  bài văn phân tích vẻ đẹp tình yêu truyền thống và hiện đại trong bài thơ sóng của xuân quỳnh (ngữ văn 12) hay nhất

Hình minh hoạ

Bài tham khảo số 3

“Sóng” là bài thơ tình đặc sắc bậc hàng đầu của Xuân Quỳnh được in trong tập “Hoa dọc chiến hào”. Bài thơ là những trạng thái, cung bậc cảm xúc đầy sinh động của trung ương hồn địa cầu thiếu phụ khi yêu. Đặc sắc của bài thơ là sự hợp lại thành giữa nét đẹp lịch sự và nét đẹp truyền thống để khiến cho nội trung khu, tình cảm đầy phong phú của địa cầu người vợ.

Nhận xét về bài thơ “Sóng”, có quan điểm cho rằng “Bài thơ mô tả quan niệm rất thế hệ mẻ, lộng lẫy của Xuân Quỳnh về tình yêu”, cũng có quan điểm kì cục cho rằng “Bài thơ diễn đạt quan niệm tình yêu mang tính truyền thống”. Hai nhận định mang tính trái ngược mà thực chất chúng trọn vẹn thống số 1 để desgin nên nét đặc sắc hàng đầu của bài thơ.

“Sóng” là ngôn ngữ của một cái tôi trong tình ái đầy tính mới mẻ, văn minh. Trong bài thơ này, tác giả Xuân Quỳnh đã biểu hiện đầy sinh động những trạng thái tình cảm mang tính đối nghịch, mâu thuẫn trong trung tâm hồn con người con gái:

“Dữ dội và dịu êm

Ồn ào và lặng lẽ”

Mượn hình ảnh của sóng, bạn nữ sĩ đã gợi ra những trạng thái đối cực trong trọng tâm trạng dân chúng nàng. Cũng tương đương sóng ngoài hồ có lúc ồn ào, dữ dội khi phong ba bão táp nhưng cũng có lúc dịu êm, yên lẽ khi trời im đại dương im thì vai trung phong trạng thế giới nữ khi yêu cũng vậy, sẽ có những lúc nhiệt tình mê say nhưng mà cũng có khi trầm lắng, dịu dàng. Tình yêu có thể sản xuất ra bao cung bậc cảm xúc rối rắm, đúng như câu nói “Tình yêu luôn có những quy công cụ mà lý trí không thể lý giải được”.

Cái thế hệ mẻ, thanh lịch trong hồn thơ Xuân Quỳnh được miêu tả trong bài thơ đó chính là cái mạnh dạn, khát vọng hướng tới mối tình, chủ động tìm kiếm tình ái của cuộc đời mình:

“Sông không hiểu nổi mình

Sóng tìm ra tận bể”

“Em” trong sóng trình diễn một chổ chính giữa hồn đầy sôi nổi, có sự chủ động và khát vọng sống hết mình cho ái tình, đó là khi nhân dân phụ nữ ấy mong muốn được hòa nhập hoàn toàn tình ái bé nhỏ của bản giữa để xây dựng nên mối tình bất diệt, vĩnh cửu của cuộc đời:

“Làm sao được tan ra

Thành trăm con sóng nhỏ bé

Con nào chẳng tới bờ

Dẫu muôn vời ngăn cách”

Nữ sĩ đã có niềm tin bất diệt vào ái tình, từ đó phân bua khát vọng thành thực của bản thân là được hiến dâng, sống hết mình cho mối tình. Khát vọng ấy phệ lao tới mức “em” muốn tan ra thành trăm con sóng bé dại để luôn rì rào vỗ sóng trong bể phệ ái tình của muôn đời.

Bên cạnh một cái tôi đầy mới mẻ, tân tiến trong tình yêu thì “sóng” còn mô tả được mối tình đầy truyền thống:

“Con sóng dưới lòng sâu

Con sóng trên mặt nước

Ôi con sóng nhớ bờ

Ngày đêm không ngủ được”

Cũng rưa rứa bao toàn cầu phụ thiếu nữ xưa, khi yêu “em” cũng mang trong mình nỗi nhớ da diết, nỗi bổi hổi khắc khoải đối với con người mình yêu. Ta có thể gặp quan niệm của Xuân Quỳnh về nỗi nhớ có điểm gặp gỡ với nỗi nhớ trong những bài ca dao, dân ca xưa:

“Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ

Nhớ ai, ai nhớ, giờ đây nhớ ai”

Nỗi nhớ trong thơ Xuân Quỳnh lại da diết, khắc khoải đến mức vượt qua mọi giới hạn về không gian gian, thời gian, trong dân chúng của tinh thần và cả sự vô thức. Nỗi nhớ nhung da diết của “em” hướng tới anh không chỉ thường trực khi còn thức cơ mà còn khắc khoải cả sau khi chìm vào trong giấc mơ.

Sự thủy phổ quát, son sắc của dân chúng phụ người vợ trong thơ Xuân Quỳnh cũng được diễn tả trong suy nghĩ luôn hướng về phía anh, khu vực con tim của “em” được trao gửi:

“Dẫu xuôi về phương Bắc

Dẫu ngược về phương Nam

Nơi nào em cũng nghĩ

Hướng về anh một phương”

Tình yêu sẽ phải trải qua bao đau buồn, thử thách mới có thể đi đến bờ bến sau rốt của hào hứng. Tuy nhiên những trắc trở, vô thường của cuộc sống cũng không thể ngăn cản trái tim của địa cầu người vợ hướng về trái đất mình yêu. Sức bạo gan của tình yêu đã giúp em vượt qua tuyệt vời để tới bên anh như một quy luật pháp của tình cảm:

“Ở ngoài kia hồ

Trăm ngàn con sóng đó

Con nào chẳng tới bờ

Dẫu muôn vời ngắt quãng”

Như vậy, qua bài thơ “Sóng” trái đất đọc vừa cảm chiếm được những nét thế hệ mẻ, văn minh vừa thấy được những quan niệm truyền thống về mối tình. Chính sự liên hiệp đặc sắc này đã giúp cho sức say đắm đặc trưng cho bài thơ Sóng trong trái tim của những quần chúng đang yêu.

9  bài văn phân tích vẻ đẹp tình yêu truyền thống và hiện đại trong bài thơ sóng của xuân quỳnh (ngữ văn 12) hay nhất

Hình minh hoạ

Bài tham khảo số 4

Xuân Quỳnh là một trong những thi sĩ tiêu biểu nhất của mới các nhà thơ trẻ thời chống Mĩ. Thơ Xuân Quỳnh là tiếng lòng của một trung khu hồn phụ nữ nhiều trắc ẩn, vừa hồn nhiên, tươi tỉnh, vừa thực bụng, đượm đà và luôn da diết trong khát vọng về niềm vui đời thường. Bài thơ “Sóng” được sáng tác năm 1967 trong chuyến đi thực tế ở vùng đại dương Diêm Điền (Thái Bình), lúc đó Xuân Quỳnh thế hệ nhị mươi lăm tuổi trẻ trung, yêu đời. Đây là một bài thơ đặc sắc viết rất thú vị về ái tình, rất tiêu biểu cho hình trạng thơ Xuân Quỳnh mô tả vẻ đẹp trung ương hồn của quả đât phụ nữ trong mối tình hiện lên qua hình tượng sóng: tình ái khẩn thiết, nồng thắm, đầy khát vọng và sắt son tầm thường thuỷ, vượt lên mọi giới hạn của đời trái đất.

Quan niệm thế hệ mẻ, sang trọng là quan niệm ngày nay, quan niệm của những quần chúng. # có đời sống văn hóa, ý thức không bị ràng buộc vì ý thức hệ tư tưởng phong kiến. Về tình ái, sự mới mẻ, sang trọng diễn tả ở: hành động phân bua những khát khao yêu đương mãnh liệt, khát vọng mạnh khỏe mẽ bạo phổi về những rung động rộn rực cảm xúc trong lòng, tin vào cường độ của ái tình. Quan niệm truyền thống là quan niệm có từ xa xưa, được bảo tồn trong đời sống sang trọng. Trong mối tình, nó được biểu lộ ở những nét đẹp truyền thống: đằm thắm, dịu dàng, thủy thường ngày…

Đó là một ái tình với nhiều cung bậc no ấm, nhiều chủng loại: dữ dội, ồn ào, dịu êm, yên lẽ:

“Dữ dội và dịu êm

Ồn ào và yên lẽ”

Hay còn là sự mạnh dạn bạo, hành động bộc bạch những khát khao yêu đương mãnh liệt và rung động rạo rực trong lòng mình “Sông không hiểu nổi mình/ Sóng tìm ra tận bể”. Hình ảnh so sánh cho thấy, loài người cô gái ở đây không còn sự thụ động, chờ đợi tình ái nhưng chủ động, khao khát tìm kiếm một tình ái mãnh liệt. Người thiếu nữ dám sống hết mình cho mối tình, hòa nhập tình yêu cá nhân vào tình ái rộng lớn của cuộc đời:

“Làm sao được tan ra

Thành trăm con sóng ốm

Giữa đại dương lớn tình ái

Để ngàn năm còn vỗ”

Dù vậy, thì tình ái trong “Sóng” vẫn chứa đựng những nét đẹp truyền thống. Nỗi thương nhớ trong tình yêu được bộc lộ qua hình tượng sóng và em:

“Ôi con sóng nhớ bờ

Ngày đêm không ngủ được

Lòng em nhớ đến anh

Cả trong mơ còn thức”

Nỗi nhớ thường trực, da diết, mãnh liệt suốt đêm ngày. Tình yêu đính thêm liền với sự thông thường thủy:

“Dẫu xuôi về phương bắc

Dẫu ngược về phương nam

Nơi nào em cũng nghĩ

Hướng về anh – một phương”

Với em không chỉ có phương Bắc, phương Nam nhưng mà còn có cả “phương anh”. Đó là phương của tình ái bồ, là không gian của tương bốn. Tình yêu thêm với khát vọng về một tình nhân vợ háo hức: Cũng như sóng, dù vô vàn ngăn cách rồi sau hết cũng tới được bờ, người phụ cô gái trên hành trình đi tìm niềm vui cho dù lắm chông gai cơ mà vẫn tin cậy sẽ cập bến.

Tóm lại, “Sóng” chính là sự liên kết giữa vẻ đẹp truyền thống và tân tiến trong ái tình.

9  bài văn phân tích vẻ đẹp tình yêu truyền thống và hiện đại trong bài thơ sóng của xuân quỳnh (ngữ văn 12) hay nhất

Hình minh hoạ

Bài tham khảo số 5

Nhà thơ Xuân Quỳnh có một chùm thơ về hồ: “Thuyền và biển”, “Sóng”, “Chỉ có sóng và em”. “Sóng” được nhiều người chơi đọc nhớ đến, đây là một trong những bài thơ tình hay nhất của chị. Bài thơ là nơi tập kết nhiều đặc điểm của thơ Xuân Quỳnh: hồn hậu, nữ tính, chân thành. Đặc biệt qua bài thơ “Sóng”, Xuân Quỳnh “đã biểu lộ được một mối tình có thuộc tính truyền thống như ái tình muôn thuở nhưng vẫn mang thuộc tính thanh lịch như tình yêu hôm nay” (Hà Minh Đức).

Xuân Quỳnh được biết tới như là cây bút bạn nữ nhất của thi ca tình yêu thời chống Mỹ và thời kỳ hậu chiến. Thơ của chị là tiếng lòng của một vai trung phong hồn phụ người vợ nhiều trắc ẩn, vừa hồn nhiên, tươi tỉnh, vừa thực tâm, mặn mà và luôn da diết trong khát vọng hạnh phúc bình dị đời thường. Bài thơ “Sóng” được viết năm 1967, in trong tập “Hoa dọc hào chiến đấu”. Đây được xem là một trong những sáng tác thành công nhất của Xuân Quỳnh về đề tài ái tình.

Giáo sư Hà Minh Đức qua tiếng lòng của địa cầu phụ nữ trong “Sóng” đã nhận ra “một ái tình có tính chất truyền thống như tình yêu muôn đời”. Nghĩa là, tình ái của mọi người phụ bạn nữ trong bài thơ ấy đã mang những đặc điểm của một tình yêu truyền thống như bao nhiêu mối tình của thế giới phụ chị em dị biệt. Tình yêu ấy luôn giữ cho mình nét hồn hậu, mặn mòi, người vợ tính muôn đời. Nhưng ẩn đằng sau chất truyền thống ấy là “chất tao nhã như mối tình bữa nay”. Đó là cá tính khỏe mạnh mẽ của nhân dân phụ thanh nữ thế kỷ nhì mươi bứt phá những bé nhỏ hẹp đời thường để tới với tình ái rộng to bao la “Sông không hiểu nổi mình/Sóng tìm ra tận bể”. Hiện đại ở đây lắp liền với quan niệm tình ái tự do chứ không phải là bị động như ái tình truyền thống.

Trước hết, “Sóng” biểu thị một ái tình có tính chất truyền thống như ái tình muôn thuở”. Tình yêu muôn đời có tự thuở xa xưa, khi trai gái biết nhớ thương, tình ái bắt đầu bén rễ, hứa hò bắt đầu làm tim nhau xôn xang để “nghìn năm hồ dễ mấy ai quên” thì mối tình tới. Nam giới thường tự do hơn trong mối tình, chủ quyền đến, hòa bình đi, chủ quyền nói lời yêu, chủ quyền phân trần. Còn phụ thiếu nữ, do đặc điểm về hộ gia đình, về định kiến nên chuyện tình cảm đối với họ là điều khó đãi đằng. Vậy nên, trong ái tình của dân chúng phụ người vợ Việt Nam, cái truyền thống ngàn đời bó buộc họ trong một cái “khuôn” có sẵn. Xuân Diệu khi yêu đã mượn sóng để nói lên điều mãnh liệt của tình yêu giới mình, cái vồ vập, say mê muốn của con trai làm nên ai đó đỏ mặt:

“Anh xin làm sóng biếc

Hôn mãi cát đá quý em

Hôn thật khẽ thật êm

Hôn yên ả mãi mãi

Đã hôn rồi hôn lại

Cho tới nát cả trời

Anh thế hệ thôi dào dạt”

Thì Xuân Quỳnh lại mượn sóng để nói lên nét con gái tính bắt mắt ngàn đời của dân chúng phụ con gái:

“Dữ dội và dịu êm

Ồn ào và im lẽ

Sông không hiểu nổi mình

Sóng tìm ra tận bể”

Sóng là một hình tượng ẩn dụ vừa hóa giữa vừa hòa nhập với cái tôi trữ tình. Và ở đây, sóng góp phần nói lên tình cảm, tình yêu của Xuân Quỳnh. Tình yêu ấy có nhiều trạng thái mô tả, khi im lẽ dịu êm, hiền hòa, êm dịu. Đó là chất thiếu phụ tính – một phẩm chất di truyền từ ngàn đời ở phụ người vợ. Khi lại ồn ào, dữ dội với những tị tuông, giận hờn vô cớ (cung bậc muôn đời khi yêu). Hai trạng thái cảm xúc ấy “Dữ dội – dịu êm/Ồn ào – lặng lẽ” là đối cực của sóng mà cũng là những cảm xúc nội chổ chính giữa đầy phức tạp, mâu thuẫn mà cũng rất thống hàng đầu hài hòa trong chổ chính giữa hồn của quả đât phụ người vợ khi yêu. Xuân Quỳnh dùng quan hệ giới tính từ “và” ở thân nhị sự tương phản ấy chứ không phải là từ “nhưng”. Nếu là “cơ mà” thì sự tương phản đối chọi là cục bộ. Còn “và” thì trong cái dịu êm có cái dữ dội, trong ồn ào có cái im lẽ. Sự quân bình giữa nhì trạng thái trọng điểm hồn ấy thi công nên ái tình muôn thuở ở địa cầu phụ nữ giới thật đẹp tươi làm sao.

Con sóng là sự vĩnh hằng của biển khơi (xưa cũng vậy và nay cũng vậy), và tình yêu luôn là sự khát khao bổi hổi của tuổi xanh:

“Ôi con sóng ngày xưa

Và ngày sau vẫn thế

Nỗi khát vọng tình yêu

Bồi hồi trong ngực trẻ”

Quy công cụ muôn đời của thiên nhiên là sóng “ngày xưa” hay “ngày sau” thì “vẫn thế”. Nghĩa là nó định hình, không thay đổi. Nó vẫn chứa đựng trong nó những cung bậc dữ dội, ồn ào, dịu êm, yên lẽ muôn thuở ấy. Từ quy phương pháp muôn thuở ấy của thiên nhiên, Xuân Quỳnh cũng rất thiên nhiên khi chạm vào lòng ta quy lý lẽ của tình ái muôn đời:

“Nỗi khát vọng mối tình

Bồi hồi trong ngực trẻ”

Ngoài ra tuổi xanh hình thành là để yêu, và ái tình có địa điểm dị kì cho riêng tuổi trẻ do “Làm sao sống được cơ mà không yêu/ Không nhớ không thương một kẻ nào” (Xuân Diệu). Tình yêu là “cái buổi lúc đầu bịn rịn ấy” tới bên ta như những con sóng bé vỗ vào hồn để tim ta bổi hổi trong lồng ngực, để trọng điểm hồn ta trào dâng bao “khát vọng” cồn cào. Vâng! Ông hoàng thi ca tình ái Xuân Diệu đã đúng khi nói “Hãy để trẻ bé bỏng nói vị ngọt của viên kẹo/ Hãy để tuổi trẻ nói hộ lời yêu”. Ai đang ở vào độ tuổi mười tám trăng tròn, ai đã đi qua thời tuổi xanh, đảm bảo sẽ hiểu điều này.

Tình yêu là một tình cảm bự lao, thiêng liêng được phát triển theo quy chính sách tầm thường của đời sống xã hội và quy dụng cụ riêng của mỗi ái tình. Không dễ giảng nghĩa, luôn là những thắc mắc “Khi nào ta yêu nhau” và rất khó xác định, không theo một quy phương tiện thường ngày nhất.

“Trước muôn trùng sóng bể

Em nghĩ về bầy

Em nghĩ về hồ lớn

Từ chỗ nào sóng lên

Sóng bắt đầu từ gió

Gió bắt đầu từ đâu

Em cũng đo đắn nữa

Khi nào ta yêu nhau?”

Biển cả là thiên nhiên thuộc về rộng lớn, vô tận, vô cùng là ẩn dụ cho mối tình vĩnh cửu vĩnh hằng. Trước biển, nhân loại thanh nữ là em Cảm Xúc ốm bé quá. Nhìn những con sóng bất tận xô bờ nhưng mà lòng bỗng trù trừ. Điệp ngữ “em nghĩ” ấy cứ láy đi láy lại hai lần để rồi trong trung ương hồn toàn cầu nàng nhiều ưu bốn ấy bật lên nhiều trăn trở:

“Từ chỗ nào sóng lên?

Gió bắt đầu từ đâu?

Khi nào ta yêu nhau?”

Ba câu hỏi ấy là hỏi về nguồn cội của sóng gió và cũng là nguồn cội bí ẩn muôn đời của tình ái. Ba câu hỏi ấy có cùng bình thường một câu trả lời thật thanh nữ tính, bắt mắt, rất ư là con gái:

“Em cũng do dự nữa”

Ta bắt gặp cái nhấp lên xuống đầu nhè nhẹ, cái bất lực xinh tươi. Và vì bởi vì em như thế nên tình yêu càng trở thành bí ẩn để anh mãi mãi đi tìm.

Nét nghĩa nữa trong ý thơ về cỗi nguồn mối tình trên là: tình yêu muôn thuở vẫn là một ẩn số. Nó tựa như một giai điệu không có nốt nhạc kết, một bài thơ không có ngừng, một bài toán không tồn tại đáp số… Tình yêu là sự mày mò hai trái đất, học hỏi nhì ngoài trái đất mà sự gián đoạn là “giới hạn cần thiết vượt qua”. Vì thế nên không một định nghĩa nào thật hoàn chỉnh về tình yêu, hay nói đúng hơn là mọi định nghĩa về tình ái đều biến thành gượng ép. Nói phổ quát, càng yêu mê say bao nhiêu, chân thành bao nhiêu thì thế giới ta càng quan trọng lý giải được ngọn ngành của nó. Hiểu như thế, ta càng yêu, càng quý con người đàn bà trong bài thơ này bởi tình yêu ấy bảo đảm không hề vụ lợi, tính liệu nhưng mà rất thiên nhiên, rất chân thành, đặm đà.

Tình yêu truyền thống chẳng thể thiếu nỗi nhớ thương và sự thủy thường ngày. Nếu thủy phổ biến là thước đo của tình yêu thì nỗi nhớ là nồng độ để đo độ thủy phổ quát ấy:

“Con sóng dưới lòng sâu

Con sóng trên mặt nước

Ôi con sóng nhớ bờ

Ngày đêm không ngủ được

Lòng em nhớ đến anh

Cả trong mơ còn thức”

Có ai đó đã từng nói rằng: “Một trái tim đang nhớ là biểu thị của một trái tim đang yêu còn một trái tim đã hoàn thành nhớ là biểu đạt của một tình ái sắp sửa lụi tàn”. Từ xưa đến nay, tình yêu luôn gắn liền với nỗi nhớ, nỗi nhớ gắn với hai đầu “ở hai đầu nỗi nhớ”. Nỗi nhớ là nhạc điệu chính của ái tình gia đình. Tố Hữu từng có so sánh rất kì khôi trong bài Việt Bắc: “Nhớ gì như nhớ hộ gia đình”. Thế thế hệ biết, nỗi nhớ giới tính là trên hết và có cường độ vượt qua mọi nỗi nhớ khác nhau để trở nên nỗi ám ảnh của những vợ nhau:

“Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ

Nhớ ai, ai nhớ, hiện thời nhớ ai”

Hay:

“Đêm nằm lưng chẳng đến giường

Cứ mong trời sáng ra đường gặp anh”

Trong bài thơ “Sóng” thi sĩ mượn sóng để nói lên nỗi nhớ mãnh liệt của mình. Sóng nhớ bờ cơ mà nỗi nhớ trùm lên mọi không gian “lòng sâu”, “mặt nước”, trùm lên mọi thời gian “sớm hôm không ngủ được” để khao khát hướng vào bờ. Nỗi nhớ ấy vừa hiện diện trong chiều rộng “trên mặt nước” vừa có chiều sâu “dưới lòng sâu”. Sóng không ngủ được tương tự em nhớ anh đến nỗi “cả trong mơ còn thức”. Xuân Quỳnh quả rất sâu sắc khi sài tới sáu dòng thơ để thổ lộ nỗi nhớ. Trong đó nhị câu cuối khổ năm quả rất tài ba:

“Lòng em nhớ tới anh

Cả trong mơ còn thức”

Chữ “lòng” thật hấp dẫn, nó là nhãn tự của cả câu thơ. Ý thơ giàu sức gợi có nhẽ cũng là ở đây. Lòng là chỗ sâu thẳm của trọng tâm hồn con người, số 1 là tâm hồn toàn cầu phụ phái nữ. Nơi ẩn giấu những tình cảm tình thực mặn mòi. Nơi để yêu thương, sầu khổ, dịu dàng… Và khi Xuân Quỳnh nói “Lòng em nhớ đến anh” thì hãy hiểu rằng, thế giới thiếu nữ ấy đã nghiêng hết cả tình yêu, dốc cạn cả tim mình để hướng về phương anh rồi. Câu thơ “Cả trong mơ còn thức” miêu tả nỗi nhớ thường trực. Nghĩa là cả trong tiềm thức, ý thức lẫn vô thức, hình bóng của cặp vẫn cứ ám ảnh tới ngọt ngào khiến em “ra ngẩn vào ngơ một mình”.

Tình yêu truyền thống của mọi người phụ cô bé Việt là thêm liền với thủy chung. Vì mến thương của quần chúng. # phụ bạn nữ Việt là canh bạc mà lại nâng niu là sự “đặt cược” sau cùng. Mất hết mến yêu coi như là sự tay trắng. Nhưng dù sao đi nữa thì em vẫn:

“Dẫu xuôi về phương Bắc

Dẫu ngược về phương Nam

Nơi nào em cũng nghĩ

Hướng về anh – một phương”

Hai câu thơ đầu như một mệnh đề với những cặp từ “dẫu” đứng ở đầu câu cùng phép điệp cấu trúc “Dẫu xuôi – Dẫu ngược”. Các động từ “xuôi”, “ngược” và không gian địa lý Bắc – Nam đã góp phần làm nhấn dũng mạnh sự xa xăm ngắt quãng, sự nặng nhọc, thống khổ. Để mệnh đề nhị Xuân Quỳnh khẳng định: Dẫu bóng gió gián đoạn, dẫu nặng nhọc khổ sở thì:

“Nơi nào em cũng nghĩ

Hướng về anh – một phương”

“Nơi nào” – “cũng nghĩ” là cách biểu diễn một cảm xúc thường trực, ám ảnh. Còn “hướng về anh” là sự toàn trọng tâm toàn ý. Lại đính dấu gạch nối ở thân và chữ “một phương” ở cuối câu thơ. Càng vững chắc lắp cho sự khẳng định hướng về anh là cả “toàn hồn” của em. Bởi như Xuân Quỳnh từng nói:

“Em trở về đúng nghĩa trái tim em

Là máu giết mổ đời thường ai chẳng có

Dẫu kết thúc đập khi cuộc đời không còn nữa

Nhưng biết yêu anh cả khi chết đi rồi”

(Tự hát)

Đã yêu là tin và quả đât phụ thanh nữ trong tình yêu ngàn đời luôn tin điều đó. Niềm tin ấy đặt vào những con sóng biển. Sóng ở mãi tận giữa cực kì, gặp muôn nghìn bão tố mà cuối cùng “Con nào chẳng đến bờ/Dù muôn vời gián đoạn”. Thì tình yêu cũng thế, muốn có mối tình xác thật, phải biết vượt qua những thách thức mới có được mừng cuống. Vì:

“Tình ta như hàng cây

Đã qua mùa bão tố

Tình ta như dòng sông

Đã im mùa thác bè cánh”

(Thư tình cuối mùa thu, Xuân Quỳnh)

Tình yêu trong thơ Xuân Quỳnh không dừng ở chừng độ tình ái buổi đầu giản đơn hò hứa hẹn, non nớt, ngọt ngào nhưng mà là mối tình – nao nức, ái tình gắn thêm với cuộc đời phổ biến, với nhiều những hiểu biết ở chiều sâu của tình cảm, với nhiều minh chứng của thử thách, mang đậm dấu ấn nghĩa vụ. Dị kì nó có “tính thanh nhã như tình ái hôm nay”.

Qua hình tượng sóng và đầy đủ bài thơ, ta cảm nhận được vẻ đẹp trung tâm hồn của thế giới phụ nữ giới trong tình ái. Đó là sự mạnh bạo, chủ động thổ lộ những khát khao yêu đương mãnh liệt và rung động rộn rực trong lòng mình. Nếu như những cô gái trong ca dao xưa khi yêu chỉ biết thụ động “Cha mẹ đặt đâu con ngồi đó” để rồi tất yêu quyết định lấy được vui tươi của mình. Mãi mãi họ sống trong đau buồn:

“Em như con hạc đầu đình

Muốn bay chẳng nhấc nổi mình nhưng bay”

Thì ở đây không còn sự bị động, hy vọng (như trong truyền thống) nữa. Nếu “Sông không chịu hiểu mình” thì sóng chấm dứt khoát từ bỏ nơi chật hẹp đó, “tìm ra tận bể”, tới với cái cao rộng, bao dung. Vì sóng chỉ thực thụ là sóng khi nó tìm về với hồ. Đại dương thực thụ là nơi vĩnh hằng của sóng. Còn lòng sông chật hẹp kia muôn đời sao có thể làm con sóng yên lòng được. Cũng như vậy, tình ái hiện đại là tình yêu không cam chịu một tình cảm bé xíu nhen, ích kỷ, phổ thông. Vì vậy, nếu anh hẹp hòi và thiếu sự bao dung thì em chuẩn bị từ bỏ anh để ra đi tìm ái tình rộng lớn hơn.

Tình yêu thanh nhã đó còn là một tình ái với nhiều cung bậc (dữ dội, dịu êm, ồn ào, im lẽ, cả trong mơ còn thức…). Có lúc chị còn muốn dâng hiến:

“Làm sao được tan ra

Thành trăm con sóng tí xíu

Giữa biển lớn tình ái

Để ngàn năm còn vỗ”

Cụm từ “tan ra” không phải mất đi mà lại trường tồn đến ngàn năm bởi vì Xuân Quỳnh biết chọn biển mập tình ái nhưng mà vỗ sóng. Biển béo là hình ảnh cường tráng của điểm tựa tình ái, tình quả đât khiến bài thơ ấm và chắc. Sức hút của bài thơ là sức hút của trái đất thanh nữ biết yêu hành động, mãnh liệt, biết dành hết mình cho ái tình. Tình yêu của cá nhân nhân dân chỉ có thể trở thành vĩnh cửu và bất tử khi tình ái đó hóa giữa vào biển mập của mối tình nhân dạng hình. Xuân Quỳnh đã dám yêu và dám thổ lộ nói chung, đó là nét thế hệ mẻ lịch sự trong mối tình.

Có thể nói “Sóng” là khát vọng mối tình, sống sót mãi trong trái tim giàu cảm thương của Xuân Quỳnh và của chúng ta. “Sóng” vừa mang tính chất truyền thống muôn đời vừa mang tính chất tân tiến của mối tình hôm nay. Con sóng của Xuân Quỳnh vừa dịu dàng neo đậu vào bờ bến thuỷ phổ quát vừa mới mẻ, cao nhã và táo bạo cực kì. Đó là cái gốc của truyền thống dân tộc bền chắc khiến con sóng của Xuân Quỳnh gần gũi với sóng của ca dao: “Chừng nào con sóng bỏ ghềnh/ Cù lao bỏ đại dương anh thế hệ đành bỏ em”. Đến đây có thể khẳng định quan điểm của giáo sư Hà Minh Đức là vui sướng chính xác: Qua bài thơ Sóng, Xuân Quỳnh “đã biểu đạt được một mối tình có thuộc tính truyền thống như tình ái muôn đời cơ mà vẫn mang tính chất lịch sự như ái tình hôm nay”.

Bài thơ “Sóng” của đàn bà hoàng thi ca tình yêu Xuân Quỳnh tương đương câu chuyện cổ tích về tình yêu. Nó khiêu gợi ta, khơi dậy trong ta về cội nguồn, về đạo lý, ân tình của ái tình khiến mỗi câu thơ như sợi chỉ đan vào trọng điểm hồn ta bao sợi nhớ sợi thương. Từ đó soi chiếu vào mối tình của mình chúng ta biết trân trọng những gì có trong cuộc sống hôm nay.

9  bài văn phân tích vẻ đẹp tình yêu truyền thống và hiện đại trong bài thơ sóng của xuân quỳnh (ngữ văn 12) hay nhất

Hình minh hoạ

Bài tham khảo số 6

Một trong những thành công tiêu biểu của Xuân Quỳnh phải kể tới bài thơ “Sóng”. Qua hình tượng trung chổ chính giữa đó là “sóng”, Xuân Quỳnh diễn tả chi tiết, sinh động khát vọng tình yêu với những cung bậc tình cảm sang giàu và vẻ đẹp trung tâm hồn của nhân dân phụ thiếu phụ trong ái tình. Tình yêu đó vừa mang những nét truyền thống, lại vừa mang nét lộng lẫy.

Trước hết, cần hiểu được tình yêu truyền thống và mối tình tân tiến đặc biệt nhau như thế nào? “Tình yêu mang tính chất truyền thống như tình yêu muôn đời” là mối tình lắp liền với những đặc điểm cảm xúc, tình cảm có tính quy khí cụ. Đó là quy luật pháp tình cảm thường gặp trong tình ái của người nhà như nhớ nhung, giận hờn, khao khát Tình yêu “lịch sự” là ái tình đề cao cái tôi cá nhân, đề cao những cảm xúc, khao khát mãnh liệt vượt qua những giới hạn.

Trong tình yêu có nhiều trạng thái diễn đạt, khi im lẽ dịu êm, hiền hòa, êm dịu. Khi lại ồn ào, dữ dội với những ghen tuông tuông, giận dỗi vô cớ (cung bậc muôn đời khi yêu). Hai trạng thái cảm xúc ấy “Dữ dội – dịu êm/Ồn ào – yên lẽ” là đối cực của sóng nhưng mà cũng là những cảm xúc nội trung tâm đầy tinh xảo, mâu thuẫn mà cũng rất thống nhất hài hòa trong trung khu hồn của con người phụ cô gái khi yêu:

“Dữ dội và dịu êm

Ồn ào và im lẽ”

Hai trạng thái đối lập này cùng tồn tại trong nhân tiện thống nhất là “sóng”. Cách trình bày những trạng thái bất thường của sóng gợi lên những khát vọng ái tình trong trọng điểm hồn đầy bí ẩn của người người vợ, khi bồng bộn, sôi nổi, khi kín đáo sâu sắc, vừa gợi cảm vừa tỉnh giấc táo, vừa nồng nàn, vừa âm thầm, vừa mãnh liệt vừa ngàn lần yếu mềm. Điểm gặp gỡ đồng điệu và kì khôi thân sóng và nhân vật trữ tình “em” cho thấy sóng chính là ẩn dụ của “em”, của khát vọng mối tình nhiều thao thức cơ mà thú vui vô bờ. Sóng tự ngàn năm vẫn từ sông ra bể, từ giới hạn chật hẹp tới không gian rộng lớn.

Tình yêu truyền thống cấp thiết thiếu nỗi thương nhớ và sự thủy thông thường. Nếu thủy thông thường là thước đo của tình yêu thì nỗi nhớ lại là sinh khí của tình ái:

“Con sóng dưới lòng sâu

Con sóng trên mặt nước

Ôi con sóng nhớ bờ

Ngày đêm không ngủ được

Lòng em nhớ đến anh

Cả trong mơ còn thức”

Khổ thơ trùng trùng hình ảnh những con sóng, gợi nỗi nhớ nồng nàn với nhiều cung bậc. Có khi, mặt hồ to lao như đại dương cả, có lúc lại da diết, miên man với thời gian, đêm ngày không ngủ được. Lại có lúc trải rộng tha thiết với không gian phương Bắc, phương Nam và lại có lúc cũng không giấu nổi nỗi khắc khoải như con sóng nổi trên mặt nước. Và nhiều lúc, nỗi nhớ cũng chìm sâu trong trăn trở, nhớ quay quắt trong lòng như con sóng ngầm dưới đại dương sâu.

Không chỉ “nhớ anh, hướng về anh, nghĩ về anh” mối tình đã lấp đầy con tim, khối óc, trở nên lẽ sống, trở thành khát vọng của cả cuộc đời. Hình ảnh sóng được nhân hóa mang “tình em” và“nỗi nhớ” của em thật thi vị. Từ cảm “ôi” ra đời thân dòng thơ như một tiếng lòng giật giật giữa niềm nhớ nhung da diết. Nỗi nhớ được biểu lộ trực tiếp qua ẩn dụ sóng đã da diết, sóng nhờ bờ đêm ngày, sóng ru, sóng vỗ, sóng vẫn thao thức với thời gian. Nỗi nhớ ấy tự nhiên, hồn nhiên, đam mê mà hình như vẫn chưa đủ mà còn được thuyết trình trực tiếp qua nỗi nhớ của hero trữ tình “em”:

“Lòng em nhớ đến anh

Cả trong mơ còn thức”

Cấu trúc thơ thay đổi, cả bài là những khổ tứ dòng, nỗi nhớ lại được biểu lộ bằng khổ thơ sâu dòng, đã phơi lộ cái tôi riêng của quần chúng. # đàn bà sĩ – một nỗi nhớ chứa chan lòng yêu. Nó nồng nàn, thắm thiết hơn cả nỗi nhớ của sóng với bờ vì nó không chỉ sinh tồn trong ý thức, mà tuồng như còn len lỏi vào trong tiềm thức, xâm nhập cả vào trong giấc mơ “cả trong mơ còn thức”.

Chính nỗi nhớ ấy đã xây đắp nên lòng thủy thường nhật son sắc:

“Dẫu xuôi về phương bắc

Dẫu ngược về phương nam

Nơi nào em cũng nghĩ

Hướng về anh – một phương”.

Điệp từ “dẫu” như khẳng định bao nhiêu thách thức, gian khổ phải vượt qua dù không gian mở rộng đa chiều “phương bắc phương nam” đầy cách xa trắc trở, dù tự nhiên trời đất đổi thay “xuôi bắc ngược nam” nhưng vị trí nào có “anh”, với“em”“hướng về anh một phương” bằng mối tình thủy chung, duy số 1. Nỗi nhớ ở đây cồn cào, da diết, thiết yếu nào im, chẳng thể nào nguôi. Nó cuồn cuộn dạt dào như những con sóng miên man dai diết vô hồi vô hạn. Nhịp thơ trong suốt bài gợi tới nhịp của sóng. Nhưng rõ nhất, sôi nổi hàng đầu, mãnh liệt nhất chính là ở đoạn thơ này, ngược cũng là xuôi.

Đã yêu là tin và dân chúng phụ chị em trong ái tình ngàn đời luôn tin điều đó. Niềm tin ấy đặt vào những con sóng đại dương. Sóng ở mãi tận giữa khôn xiết, gặp muôn ngàn bão tố cơ mà chung cuộc “Con nào chẳng đến bờ/Dù muôn vời gián đoạn” thì rốt cuộc em tin tình ái của chúng ta sẽ đến được cùng nhau.

Nhưng không chỉ dừng lại ở đó, ái tình ở đây còn mang nét đẹp hiện đại. Nếu như “Sông không chịu hiểu mình” thì sóng hoàn thành khoát từ bỏ địa điểm chật hẹp đó, “tìm ra tận bể”, đến với cái cao rộng, bao dung:

“Sông không hiểu nổi mình

Sóng tìm ra tận bể”

“Sóng” đã biết chủ động tìm đến với tình ái, chứ không còn tiêu cực nữa. Dị thường hơn, “sóng” với Xuân Quỳnh còn là biểu tượng của khát vọng mối tình. Nhân vật trữ tình trong thơ đã có cách ứng xử hăng hái: âu lo cơ mà không mấy thất vọng, mà lại chỉ khao khát nắm lấy náo nức trong ngày nay, sống hết mình, mãnh liệt với ái tình để vượt qua và thành tích sự hữu hạn của thời gian và đời thế giới:

“Làm sao được tan ra

Thành trăm con sóng ốm

Giữa hồ bự tình yêu

Để ngàn năm còn vỗ”

Tan ra để hòa vào hồ béo của tình ái, hồ mập của phấn khởi vĩnh hằng. Bởi với Xuân Quỳnh, cách để sống mãi là sống với tình yêu của mình. Ước muốn ấy của bà vừa dịu dàng, đôn hậu, vừa nồng thắm thiết tha. Bài thơ khép lại cơ mà hai người tình hình tượng “sóng – bờ, em – anh” vẫn đan cài vào nhau, ngời sáng một vẻ đẹp vĩnh hằng của mối tình.

Tóm lại, hình tượng “sóng” là một sáng thành lập mới lạ của Xuân Quỳnh, đã miêu tả nét đẹp truyền thống và văn minh trong tình ái.

9  bài văn phân tích vẻ đẹp tình yêu truyền thống và hiện đại trong bài thơ sóng của xuân quỳnh (ngữ văn 12) hay nhất

Hình minh hoạ

Bài tham khảo số 7

Xuân Quỳnh được mệnh danh là nữ giới hoàng thơ ái tình của nền văn học Việt Nam hiện đại. Các sáng tác của chị là một tiếng lòng của một trung tâm hồn phụ thiếu phụ nhiều trắc ẩn vừa hồn nhiên, vừa mặn mà lại nhiều khát vọng mừng quýnh bình dị đời thường. Đến với bài thơ “Sóng”, quần chúng đọc sẽ thấy được sự kết liên giữa nét đẹp truyền thống và hiện đại giúp cho vẻ đẹp của địa cầu thanh nữ khi yêu.

Đầu tiên, “Sóng” là tiếng nói của một cái tôi trong tình ái với những quan niệm thế hệ mẻ. Xuân Quỳnh đã biểu diễn tổng thể những cung bậc trong mối tình với những điểm đối nghịch:

“Dữ dội và dịu êm

Ồn ào và im lẽ”

Cũng rưa rứa con sóng ngoài biển, quần chúng con gái trong ái tình cũng có những cung bậc cảm xúc thật nhiều chủng loại. Khi thì dữ dội, ồn ào đấy nhưng mà cũng có lúc lại thật êm đềm, yên lẽ. Tình yêu nghe đâu luôn có quy lý lẽ mà lý trí tất yêu giảng giải được. Để rồi, quần chúng chị em khi yêu đã có nghĩ suy:

“Sông không hiểu nổi mình

Sóng tìm ra tận bể”

Cái mở mẻ của Xuân Quỳnh ở đây chính là sự hành động của nhân dân phụ nữ trong tình ái. Nếu như “sông” cấp thiết hiểu nổi mình, “sóng” sẵn sàng tìm ra biển béo – tìm tới với tình yêu thực thụ của đời mình.

Không chỉ vậy, dân chúng thiếu phụ trong “Sóng” còn chuẩn bị hiến dâng, hy sinh cho tình yêu:

“Làm sao được tan ra

Thành trăm con sóng nhỏ

Giữa biển lớn tình yêu

Để ngàm năm còn vỗ”

Câu hỏi tu từ “Làm sao” mở đầu khổ thơ như một lời tự nhủ. Làm thế nào để có thể sống toàn cục với ái tình? Người phụ người vợ khi yêu cũng cực kỳ mãnh liệt, họ ước mong được sống toàn cục với từng khoảnh khắc trong mối tình. Ở đây, Xuân Quỳnh sử dụng từ “tan ra” biểu hiện nét dịu dàng của thế giới phụ cô bé, đặc trưng hẳn với cái dạn dĩ mẽ của Xuân Diệu:

“Đã hôn rồi, hôn lại

Cho tới mãi muôn thuở

Đến tan cả đất trời

Anh thế hệ thôi dào dạt…

Cũng có khi ồ ạt

Như nghiến nát bờ em

Là lúc triều yêu mến

Ngập bến của ngày đêm”

(Biển)

Dẫu thanh tao là vậy, cơ mà trong ái tình, “em” vẫn giữ được những nét đẹp truyền thống. Tình yêu nào mà lại không được đong đếm bởi nỗi nhớ, và nhân dân nữ trong “Sóng cũng vậy”:

“Con sóng dưới lòng sâu

Con sóng trên mặt nước

Ôi con sóng nhớ bờ

Ngày đêm không ngủ được

Lòng em nhớ tới anh

Cả trong mơ còn thức”

“Con sóng” được khắc họa ở nhì chiều – không gian và thời gian. Dù “ở dưới lòng sâu” hay “trên mặt nước” – chiều không gian, dù là “ngày” hay “đêm” – chiều thời gian, thì con sóng “vẫn nhớ đến bờ” tới nỗi không ngủ được. Và nếu “sóng” nhớ “bờ” thì “em” lại nhớ tới “anh”. Nhưng con sóng kia còn có thể bị đứt quãng vì không gian, thời gian. Còn nỗi nhớ của em thì phá tan vỡ mọi khoảng cách địa lý. Em nhớ anh mà lại ngay cả “trong mơ vẫn còn thức”. Hình ảnh của anh đã đi vào trung tâm trí của em. Đó chẳng phải là điều gì lạ lẫm trong thơ ca. Ca dao đã từng có những câu thơ biểu lộ nỗi nhớ của những người nhà nhau:

“Khăn thương nhớ ai

Khăn rơi xuống đất

Khăn nhớ thương ai

Khăn vắt trên vai

Đèn nhớ thương ai

Mà đèn không tắt

Mắt nhớ thương ai

Mắt ngủ không yên

Đêm qua em những lo phiền

Lo vì một nỗi không lặng một bề”

Còn Nguyễn Bính lại thật khôn khéo mượn hình ảnh sau để miêu tả nỗi nhớ:

“Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông

Một nhân dân chín nhớ mười mong một mọi người

Gió mưa là bệnh dịch của trời

Tương tư là dịch của tôi yêu người vợ”

(Tương tứ)

khác thường hàng đầu đó chính là tấm lòng thủy chung của quần chúng cô gái trong ái tình:

“Dẫu xuôi về phương Bắc

Dẫu xuôi về phương Nam

Nơi nào em cũng nghĩ

Hướng về anh một phương”

Hình ảnh thơ đối chọi “xuôi” – “ngược”, “phương Bắc”’ và “phương Nam” được nhà thơ sử dụng trái với quy luật pháp phổ quát (ngược về phương Bắc, xuôi về phương Nam) với chủ tâm nghệ thuật sâu sắc. Dù cuộc đời có luôn lay chuyển không xong xuôi, đôi ta phải trả qua nhiều sóng gió, vạn vật có luôn đổi thay. Thì em vẫn luôn hướng về “phương anh”. Trái tim của em vẫn giữ được mối tình vẹn tuyền dành cho anh dù có trải qua biết bao nhiêu thống khổ, sóng gió trong cuộc đời. Em vẫn hướng về “phương anh” – một phương duy nhất, không hề thay đổi. Tấm lòng thủy thường nhật, son sắc của em thật đáng trân trọng.

Có tấm lòng thủy chung, “em” sẽ mãi tin vào mối tình của mình:

“Ở ngoài kia hồ

Trăm nghìn con sóng đó

Con nào chẳng đến bờ

Dù muôn vời cách quãng”

Con sóng nào rồi cũng sẽ tới bờ, tương tự em rồi sẽ gặp lại anh. Khi ấy, ái tình của chúng ta sẽ tồn tại lâu dài dẫu năm tháng có thay đổi.

Như vậy, người ta phụ thanh nữ trong thơ Xuân Quỳnh tuy đầy mãnh liệt, sôi nổi mà vẫn đậm đà, thủy thông thường – nét đẹp cổ điển.

Qua phân tích trên, “Sóng” đã biểu thị vẻ đẹp truyền thống tương đương hiện đại của loài người người vợ trong mối tình. Thơ của Xuân Quỳnh quả là tiếng lòng chân thật của toàn cầu phụ con gái.

9  bài văn phân tích vẻ đẹp tình yêu truyền thống và hiện đại trong bài thơ sóng của xuân quỳnh (ngữ văn 12) hay nhất

Hình minh hoạ

Bài tham khảo số 8

Sóng không chỉ là tên một thi phẩm đã gây xốn xang cho nhiều thế hệ. Sóng không chỉ là biểu trưng cho một hồn yêu chưa từng nguôi im. Sóng còn là một nguồn sống, nguồn năng lượng mà nữ giới nhà thơ ấy đã truyền lại cho mai hậu qua mỗi tiếng thơ mình. Tình yêu trong từng câu thơ là mối tình của một loài người, cơ mà cũng là của người, là tình yêu của một thời mà cũng là của mọi thời. Vì thế có ý kiến cho rằng: “Sóng đã bộc lộ ái tình truyền thống như tình yêu muôn đời”.

Ý kiến nổi bật lại khẳng định: “Sóng đã bộc lộ mối tình thanh lịch như ái tình bữa nay”.

Về ý kiến thứ số 1, “ái tình truyền thống như ái tình muôn đời” là mối tình đính với những cung bậc cảm xúc quen thuộc, bình thường, những trạng thái đã trở thành quy luật pháp muôn thuở. Còn “ái tình văn minh như tình ái bữa nay” trong ý kiến thứ hai chính là khẳng định cái nhìn mang tính thế hệ mẻ, phát hiện về mối tình của Xuân Quỳnh. Hai quan điểm là những cách nhìn riêng về những góc cạnh khác biệt nhau về nội dung của thắng lợi.

Không còn phân biệt được sóng xuất bản nên Xuân Quỳnh, hay Xuân Quỳnh đã gây ra nên sóng. Chỉ biết rằng con người bạn nữ ấy sinh ra là để dành cho thơ. Thơ ca, với Xuân Quỳnh, thêm liền với sự sống, mối tình; làm thơ là cô bé sĩ được sống với chính mình, sống đủ đầy toàn thể là mình. Mỗi bài thơ đều là ngôn ngữ tình thật hàng đầu của một chổ chính giữa hồn phụ nàng giàu trắc ẩn, vừa âu lo vừa da diết trong khát vọng sung sướng đời thường. Bài thơ “Sóng” được viết năm 1967 trong chuyến đi thực tại ở biển Diêm Điền (Thái Bình), là tiếng thơ của những ngọt ngào, đắng cay trải đời trong ái tình, sau khi vun đắp và đề nghị sự vỡ trong mối tình cơ mà vẫn thật tha thiết, chan chứa khát vọng. Bài thơ có sự song hành quyết tượng giữa “sóng” và “em”: “Sóng” và “em” có lúc tách ra để soi chiếu vào nhau, có lúc lại đoàn kết thống nhất. Sóng đại dương và sóng lòng, sóng nước và sóng tình ẩn hiện, đan nguyên vào nhau chế tạo ra những cảm xúc mới mẻ. Bởi thế, sóng có thể nói là một ẩn dụ không tốt nhất cho em, cho vẻ đẹp trọng tâm hồn toàn cầu phụ thiếu nữ trong ái tình và trong cuộc sống.

Trước hết, sóng đã diễn tả “tình ái truyền thống như tình yêu muôn đời”. Đó là những cung bậc vừa thống hàng đầu lại vừa đối lập:

“Dữ dội và dịu êm

Ồn ào và yên lẽ”

Trong quần chúng phụ thanh nữ, luôn sống sót những trạng thái đối cực. Hai câu thơ có thể đúng với bao quần chúng mà lại nó không phải là lời của một nhà tò mò trong mối tình đứng ngoài nhìn vào. Nó được viết ra trước tiên là một lời tự thú chân thành và thiên nhiên tới độ khiến ta phải ngỡ ngàng: thế ra, trái tim của thế giới phụ bạn nữ luôn có những đối cực như thế: “dữ dội” – “dịu êm”, “ồn ào” – “im lẽ”. Nhà thơ đặt liên từ “và” – không phải bức tường cách trở cơ mà là sự liên kết, chuyển hóa. Người phụ nữ có thể ồn ào, dữ dội nhưng mà chung cuộc cũng là sự trở về của bẩm tính nữ: dịu êm, yên lẽ. Đó chính là sự hiện diện của cái “tôi” Xuân Quỳnh. Như vậy, tình yêu không bao giờ là trạng thái chổ chính giữa lí tuần hàng đầu mà lại là sự hòa kết của những trạng thái kì cục nhau, thậm chí là đối chọi như những nốt thăng, trầm làm cho phiên bản tình ca tổ ấm.

Đó là những khát vọng tình ái, sự trẻ trung của toàn cầu trong tình yêu và sự trẻ trung tất yêu cắt nghĩa, lí giải được:

“Ôi con sóng ngày xưa

Và ngày sau vẫn thế

Nỗi khát vọng tình yêu

Bồi hồi trong ngực trẻ

Trước muôn trùng sóng bể

Em nghĩ về anh, em

Em nghĩ về đại dương béo

Từ địa điểm nào sóng lên?

– Sóng bắt đầu từ gió

Gió bắt đầu từ đâu?

Em cũng đắn đo nữa

Khi nào ta yêu nhau”

Đối với địa cầu phụ thiếu phụ, tình ái không tồn tại tuổi: “ngày xưa”, “ngày sau” vẫn thế, “nỗi khát vọng mối tình/ bồi hồi trong ngực trẻ”. Tuy vậy, họ vẫn luôn khao khát muốn được tìm kiếm về nguồn gốc của mối tình. Câu hỏi tu từ “Từ địa điểm nào sóng lên?” với lời đáp thật dễ chơi, nhanh chóng: “Sóng bắt đầu từ gió”. Câu hỏi thứ nhị ráo riết hơn, lí trí muốn đẩy những lừng khừng tới tột bậc: “Gió bắt đầu từ đâu?”. Những câu hỏi tu từ lúc ẩn duối chân sóng, lúc lại trào lên đầu ngọn sóng như những trằn trọc. Nhân vật trữ tình không cảm nhận về sóng mà lại nghĩ về sóng. Nương theo những con sóng, thi sĩ bắt đầu hành trình tìm kiếm chỗ khởi nguồn ái tình và phân tách, lí giải bản chất của mối tình. Đó cũng là mong muốn muôn đời của biết bao nam nữ. Câu trả lời vừa là sự thú nhận, vừa là sự thức nhận: “Em cũng băn khoăn nữa/ Khi nào ta yêu nhau”. Đó là cái nhấp lên xuống đầu diễn đạt một trọng tâm lí rất phụ cô bé: không đam mê rạch ròi dẫu trong lòng còn bao nhiêu bức xúc “đòi tìm ra tận bể” để hiểu, để nghĩ. Nó là bức xúc của tình cảm hơn là bức xúc của trí tuệ. Phải chăng ở trong đời, “phái yếu” không mong gì hơn một nam nữ im vui, một nam nữ mừng thầm? Ít nhất, với Xuân Quỳnh là như vậy.

Đó là những sắc thái muôn đời của tình yêu:

“Con sóng dưới lòng sâu

Con sóng trên mặt nước

Ôi con sóng nhớ bờ

Ngày đêm không ngủ được

(…)

Dẫu xuôi về phương bắc

Dẫu ngược về phương nam

Nơi nào em cũng nghĩ

Hướng về anh – một phương”

Điệp từ “sóng” liên tiếp làm nên những con sóng thương nhớ như đang trào dâng dào dạt khỏi bề mặt con chữ, vừa gợi cái sôi trào mà miên man, sâu lắng của nỗi nhớ. Nỗi nhớ đầy ắp không gian: “dưới lòng sâu”, “trên mặt nước”, tràn đầy thời gian “hôm mai”. Từ nỗi nhớ “bồi hổi bồi hồi” trong ca dao tới nỗi nhớ tha thiết của Xuân Diệu: “Anh nhớ tiếng, anh nhớ hình, anh nhớ ảnh”, nỗi nhớ đến ngơ ngẩn của Hàn Mặc Tử: “Người đi một nửa hồn tôi mất/ Một nửa hồn tôi hóa dại khờ”,… Và cả tấm lòng son sắt thủy thường nhật không đổi trong khổ dưới. Trong khổ thơ, ta đã thấy sự đặc trưng so với cách biểu thị phổ thông, không phải là ngược Bắc xuôi Nam mà lại là “xuôi Bắc ngược Nam”. Sự Đặc biệt hé lộ một ái tình trắc trở, khó khăn. Nhưng đối với Xuân Quỳnh, dù có xáo trộn xuôi – ngược thì điều đó cũng chẳng có gì bắt buộc. Quang trọng hàng đầu chỉ là “phương anh”. Nếu khổ thơ trên, nữ sĩ soi vào sóng để nhận ra mình thì ở đây, nhà thơ nhìn sâu vào mình để nhìn vào quy pháp luật sóng: sóng hướng về bờ thì cuộc đời em duy hàng đầu chỉ hướng về anh. Tất cả những trạng thái ấy là những cung bậc khác trong ái tình.

Nhưng sóng còn là hình ảnh của “ái tình sang trọng như ái tình hôm nay”.

Đó là vẻ đẹp của sự vận hành động bạo phổi trong hành trình xả thân kiếm tìm ái tình:

“Sông không hiểu nổi mình

Sóng tìm ra tận bể”

Người phụ nữ luôn hướng tìm đến chủ quyền. Khám phá những không gian tồn tại của sóng, Xuân Quỳnh phát hình thành: hành trình của sóng từ sông ra hồ cũng là hành trình địa cầu tới với tình yêu: phải biết vượt qua những giới hạn bản thân chật hẹp để hòa nhập vào đại dương đời rộng béo, kiếm tìm sướng. Đó là hành trình lao vào tự nguyên, đắm say để tìm đến hạnh phúc và sống nguyên lành.

Đó còn là sự mãnh liệt trong nỗi nhớ, trong sự bày tỏ trung tâm hồn, tình cảm trong ái tình:

“Lòng em nhớ đến anh

Cả trong mơ còn thức”

Nỗi nhớ của người ta cô bé ấy cồn cào, da diết tới nỗi những con sóng kia cũng cấp thiết diễn giả hết mà tự em phải giãi bày. Hai câu thơ cuối như con sóng xuyên qua cả cõi thực, cõi mộng. Không chỉ ở ý thức nhưng mà còn lắng sâu vào tiềm thức để xuất hiện trong giấc mơ. Cái dào dạt nhớ nhung khiến cảm xúc tràn bờ nhưng kéo dung lượng ra 6 câu để thuyết trình. Cảm xúc ấy có gì giống khi Xuân Quỳnh viết “Tự hát”:

“Em trở về đúng nghĩa trái tim em

Là máu làm thịt, đời thường ai chẳng có

Cũng kết thúc đập lúc cuộc đời không còn nữa

Nhưng biết yêu anh cả khi chết đi rồi”

Nỗi nhớ “cả trong mơ còn thức” hay “biết yêu anh cả khi chết đi rồi” rất đậm chất Xuân Quỳnh: mãnh liệt mà lại đằm thắm, khỏe mạnh, giàu chị em tính. Xuân Quỳnh là thế: bao giờ cũng dám sống thật với mình, thật với cảm xúc của chính mình.

Đó còn là một trái tim đa cảm, giàu trắc ẩn, vừa âu lo vừa tràn tự tín, khát vọng:

“Ở ngoài kia đại dương

Trăm nghìn con sóng đó

Con nào chẳng đến bờ

Dù muôn vời cách trở

Cuộc đời đi dài thế

Năm tháng vẫn đi qua

Như đại dương kia dẫu rộng

Mây vẫn bay về xa

Làm sao được tan ra

Thành trăm con sóng bé xíu

Giữa đại dương to tình ái

Ðể ngàn năm còn vỗ.”

Với trái tim đa cảm và trọng tâm hồn giàu trắc ẩn, nhạy cảm trước sự chảy trôi của thời gian và lòng loài người, quần chúng phụ chị em thường có những phấp phỏng về những điều bất chắc: “Em đâu dám nghĩ là lâu dài”. Nỗi khắc khoải ấy hiện hiện hình khi nhận ra quy nguyên tắc cuộc sống: “Cuộc đời tuy dài thế/ Năm tháng vẫn đi qua”, “Mây vẫn bay về xa”. Cuộc đời dài rộng vẫn có điểm kết vậy mối tình kia có thể bình ổn giữa thời gian? Nhưng rút cuộc, địa cầu nữ vẫn chọn trao niềm tin đầy đủ. Cặp quan hệ nam nữ từ “tuy – vẫn” mang sắc thái khẳng định khiến nỗi lo kia chỉ như thoáng qua rồi lại tan biến vào trong những đợt sóng, chỉ còn niềm tin ở lại làm điểm tựa cho trung ương hồn. “Con nào chẳng tới bờ/ Dù muôn vời ngăn cách”. Niềm tin ấy không phải sự mộng tưởng, bồng bột cơ mà là sự thức thức giấc chân lí đời sống nên nó vui sướng và tha thiết. Cuối cùng, sóng là hình ảnh của những khát vọng thế giới phụ cô gái. “Tan ra”- đó là khát vọng được hóa thân vào sóng để được tồn tại trong không gian rộng phệ của đại dương cả và cái vĩnh hằng của thời gian. Đó là khát vọng lâu dài hóa tình yêu, dùng tình ái để nối dài cuộc sống ngắn ngủi của quần chúng. Khát vọng ấy lại làm ta nhớ tới câu chuyện nàng tiên cá hóa giữa làm bọt hồ để thế giới mình yêu được vui miệng vẹn tuyền. Phải chăng đó là bản tính hi sinh và dâng hiến của trái đất phụ nữ? Mở đầu bài thơ là khát vọng được sản xuất rõ mình, hoàn tất lại bằng khát vọng được hòa mình của trái đất phụ chị em.

Vấn đề này, nhì ý kiến vẫn chưa thật tất cả, chúng bửa sung cho nhau để tấn công giá về nội dung bài thơ: vẻ đẹp hình tượng “sóng” và các cung bậc, trạng thái trong “Sóng”. Điều đó được thể hiện cống phẩm qua những câu thơ mang đậm dấu ấn hồn thơ Xuân Quỳnh. Sóng không được vẽ ra bằng hình ảnh, đường nét nhưng bằng âm điệu quái lạ, thể thơ 5 chữ, lối gieo vần gián cách, ngắt nhịp linh hoạt gợi ra hình ảnh những con sóng cao thấp liên tiếp. Bước tổ chức ngôn từ theo chính sách: hô ứng tương thích, trập trùng, gợi cái dào dạt, sôi trào mà triền miên sâu lắng.

Xin mượn lời khẳng định của nhà phê bình Chu Văn Sơn thay cho lời kết: “Giờ đây, đặt chân dung cô bé thi sĩ Xuân Quỳnh vào dòng thời gian, thì không chỉ đặt chị vào chỗ đầu của top nhà thơ cùng thời Ý Nhi, Lâm Thị Mỹ Dạ, Phan Thị Thanh Nhàn, Nhã Ca. Mà theo trục dọc, phải đặt chị trong cái mạch lác đác những thanh nữ sĩ xuất chúng của thơ Việt như Hồ Xuân Hương, Đoàn Thị Điểm, Bà Huyện Thanh Quan… Xuân Quỳnh thực là một trong những gương mặt phái nữ sáng giá nhất của thơ Việt. Có lẽ chỗ ấy thế hệ là điều công chúng nghệ thuật Việt bữa qua và hôm nay muốn dành cho nữ giới thi sĩ này.”

9  bài văn phân tích vẻ đẹp tình yêu truyền thống và hiện đại trong bài thơ sóng của xuân quỳnh (ngữ văn 12) hay nhất

Hình minh hoạ

Bài tham khảo số 9

Xuân Quỳnh là trái đất phụ phụ nữ có một cuộc đời nhiều đa cam đoan thắc thỏm khó nhọc. Đó là dân chúng phái nữ có trái tim đa cảm lắp bó hết mình với cuộc đời hằng ngày trân trọng yêu kính và chi chút cho sướng bình dị, đời thường. Thơ Xuân Quỳnh là tiếng lòng của một tâm hồn phụ cô bé giàu trắc ẩn, hồn hậu, thuỷ phổ thông luôn da diết khao khát tình ái, hạnh phúc đời thường bình dị. Đọc thơ Xuân Quỳnh, loài người đọc bị đoạt được không phải bởi nghệ thuật cao nghều của nhà thơ mà lại chính vì những “công bố nhân bản ” thế hệ mẻ, kỳ lạ cơ mà sâu sắc thuộc về một “mẫu người ta ưu tú và quái đản”. Bài thơ “Sóng” với vấn đề là lời tự bạch thực tâm của trái tim toàn cầu phụ phụ nữ đang yêu thể hiện trọng điểm hồn phú quý, khát khao niềm phần khởi và tự nhận thức về tình ái hí hửng.

Vẻ đẹp tân tiến ở trong bài thơ sóng là sự hành động mạnh bạo của quần chúng cô gái đang yêu với khát khao được sống, được yêu một cách thiết tha. Đó là những giật động rạo rực cùng một trái tim yêu luôn luôn có niềm tin vào cường độ của tình ái. Vẻ đẹp truyền thống là về đẹp mang tính kế thừa lắp liền với loài người phụ thiếu nữ Việt Nam từ ngàn xưa. Đó là sự thổ lộ kín đáo ý hai cùng với lòng thuỷ phổ quát, son sắt nhưng mà cũng không dấu nổi những thấp thỏm trăn trở về ái tình và đời loài người.

Người phụ nữ hành động đến dũng mạnh, cương cứng quyết rời bỏ không gian tội phạm túng chật hẹp để tới với đại dương béo bao la rộng Khủng bát ngát để nhận thức về mình hiểu mình và được là mình.

Sông không hiểu nổi mình

Sóng tìm ra tận bể

Sông trong tương quan với hồ là một không gian bé xíu hẹp, chật chội, đầy tù hãm túng. Người phụ nữ Xuân Quỳnh đã ranh ma mượn hình ảnh sóng từ bỏ lòng sông chật hẹp để đến với hồ mênh mang để nói lên cái khát vọng được hướng tới tình ái tuyệt đích vô biên. Đó là thứ tình ái chân chính đầy sự bao dung, vị tha thấu hiểu sẻ chia. Người nữ quyết không bằng lòng một thứ tình yêu tầm thường vị kỷ không hiểu nổi mình. Biện pháp nhân hóa sóng tìm ra tận bể đã biểu lộ sâu sắc quyết tâm sắt đá khao khát cháy bỏng, một sự ráo riết đến tận cùng của con người phụ nữ giới trong hành trình kiếm tìm phấn khởi và nhu cầu tự nhận thức về mình. Ta thấy ẩn hiện đằng sau những câu thơ ấy là một quan điểm thanh tao thâm thúy về mối tình và cuộc đời. Bản chất của tình yêu vốn là sự rộng Khủng khoáng đãng và bao dung.

Vẻ đẹp ấy còn được diễn giả ở khát vọng tình yêu mãnh liệt luôn âm ỉ, bùng cháy trong trái tim nhân loại thanh nữ.

Ôi con sóng ngày xưa

Và ngày sau vẫn thế

Nỗi khát vọng ái tình

Bồi hồi trong ngực trẻ

Người cô gái Xuân Quỳnh đứng trước biển – khoảnh khắc cơ mà nhân dân thanh nữ tách mình ra khỏi để cảm nhận rõ hơn những rung động bồi hồi trong trái tim. Trạng từ chỉ thời gian “ngày xưa” – “ngày sau” hợp lại thành với phó từ “vẫn” gợi lên cảm nhận của thi sĩ về nét vĩnh hằng của những con sóng. Hàng ngàn hàng vạn năm qua những con sóng ngoài khơi vẫn cất lên bài ca bất tử. Nó vẫn là nó, vẫn vỗ mãi ngàn năm như phiên bản tình khúc của đại dương.

Cũng như sóng khát vọng tình yêu mãi mãi là một khao khát cháy bỏng phải sợ gì bổi hổi trong trái tim trái đất nhất là tuổi trẻ. Ở đây “ngực trẻ” không chỉ hướng đến tình ái của những quần chúng trẻ nhưng làm bất kỳ ai mà lại trong trái tim đều đang giật lên nhịp đập thổn thức của tình yêu do khao khát yêu và được yêu là không của riêng ai cơ mà là của đại quát chúng ta. Chính vì lẽ đó tình ái quả thực là suối nguồn tươi trẻ luôn chảy mãi trong trọng tâm hồn quần chúng.

Em trở về đúng nghĩa trái tim em

Của máu thịt dời thường ai chẳng có

Vẫn xong xuôi đập khi đời không còn nữa

Nhưng biết yêu anh cả khi chết đi rồi.

Tự Hát – Xuân Quỳnh

Vẻ đẹp tiến bộ được bộc lộ qua khao khát khám phá và nhận thức đầy chủ động của một cảm xúc mãnh liệt

Trước muôn trùng sóng bể

Em nghĩ về đồng đội

Em nghĩ về hồ Khủng

Từ địa điểm nào sóng lên?

Sóng bắt đầu từ gió

Gió bắt đầu từ đâu?

Em cũng chần chờ nữa

Khi nào ta yêu nhau

Giọng thơ chuyển sang giọng điệu suy tư trằn trọc ngần ngừ về ái tình, hàng loạt câu hỏi tu từ “từ nơi nào sóng lên?”, “gió bắt đầu từ đâu?” kết liên với điệp ngữ “em nghĩ về” đã bộc lộ rõ phần nào những lưỡng lự về cội nguồn của tình yêu hay cũng chính là nhu cầu tự nhận thức của trái tim nhân loại đàn bà đang yêu

Người cô bé đứng trước muôn trùng sóng hồ tự trách mình ra khỏi sóng để nhận thức để soi mình vào lòng sóng, để nhận thức rõ hơn được những tình cảm chất chứa địa điểm đây trái tim mình. Những câu hỏi cứ liên tiếp, dập dồn trong trọng tâm trí nhưng liệu có sống sót câu trả lời sau rốt hay không. Có lẽ câu trả lời là không vì nhà thơ Xuân Quỳnh đã bất lực thốt lên:

Em cũng chần chừ nữa

Khi nào ta yêu nhau

Câu thơ như một cái rung lắc đầu cực kì đẹp đẽ của quả đât thiếu nữ. Pascal đã từng nói “Trái tim có những quy chế độ riêng cơ mà lý trí thiết yếu hiểu nổi”. Nhưng cũng chính bởi cái bí ẩn đây kì diệu của ái tình đã khiến nó luôn luôn thú vị và trở thành nguồn thi cảm vô tận cho bao thi nhân.

Làm sao giải nghĩa được ái tình

Có nghĩa gì đâu một buổi chiều

Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt

Bằng mây nhè nhẹ nhàng gió hiu hiu

Bởi thế một thoáng lúng túng, 1 chút ngập dứt, lừng chừng trong cố gắng thì lý giải về nguồn cội của sóng và khởi thủy của tình ái thế hệ chính là tiếng lòng của một trái tim yêu đích thực. Dẫu nỗ lực lý giải, giảng nghĩa tận tường, cặn kẽ khu vực khởi điểm của mối tình là điều không thể nhưng qua đó Xuân Quỳnh đã diễn đạt được những tình cảm khôn xiết mãnh liệt của mình.

Vẻ đẹp của loài người bạn nữ mang đậm dấu ấn tân tiến khi chủ động phân bua nỗi nhớ của mình, chủ động trên đoạn đường tìm kiếm mừng cuống

Con sóng dưới lòng sâu

Con sóng trên mặt nước

Ôi con sóng nhớ bờ

Ngày đêm không ngủ được

cũng có thể nói nỗi nhớ luôn gắn liền với tình ái, nỗi nhớ là miêu tả trọn vẹn và sâu sắc số 1 cho một tình ái thật tình mãnh liệt. đặc biệt là khi nhị toàn cầu phải xa nhau. Đến với thơ Xuân Quỳnh trái đất đọc đã được tìm hiểu một nỗi nhớ cồn cào mãnh liệt da diết bồi hồi không dứt, không nguôi. Nó tăng trào và mãnh liệt như những đợt sóng biển triền miên vô hồi, vô hạn. Một nỗi nhớ bao trùm cả không gian, xâm lược cả dòng chảy thời gian bất tận và choán ngợp cả chổ chính giữa trí toàn cầu chị em.

Anh nhớ tiếng, anh nhớ hình, anh nhớ ảnh

Anh nhớ em, anh nhớ lắm, em ơi

hay như con người nữ giới trong thơ Đường đã từng khắc khoải:

Nhớ chàng như mảnh trăng đầy

Đêm đêm quà sáng, hao tí hon đêm đêm

Tác giả sài những từ ngữ tương phản trái nghĩa “dưới lòng sâu” – “trên mặt nước”, “ngày” – “đêm” diễn đạt được nhiều chiều kích của nỗi nhớ. Điệp từ “sóng” được lặp lại ba lần gợi hình ảnh những con sóng cứ vỗ rập rìu như một điệp khúc của bạn dạng tình ca với những giai điệu da diết. Cả ba câu thơ đính liền với hình sóng tương đương những đợt sóng đang gối lên nhau ân hận hả vươn tới bờ hay đó cũng là một ẩn dụ nghệ thuật về những đợt sóng lòng đang trào dâng trong trọng tâm hồn toàn cầu phụ người vợ đang yêu : Những ngày không gặp nhau Biển bạc đầu thương nhớ Những ngày không gặp nhau Lòng thuyền đau rạn nứt. Phải chăng những rung cảm quá đỗi mãnh liệt của trái tim yêu đã buộc lời thơ phải dài ra để thuyết trình cho thỏa cái chết giấc ngàn của nỗi nhớ.

Lòng em nhớ tới anh

Cả trong mơ còn thức

Con trái đất luôn sống với nhị trạng thái mơ và thức thì nỗi nhớ anh hình như đã xóa nhòa mọi khoảng cách giữa miền tinh thần và miền vô thức. Nỗi nhớ đã trở thành một nhịp đập tất cả trong trái tim con người thiếu nữ đang yêu. Nó cứ bồi hồi, triền miên da diết như hơi thở của sóng. Nỗi nhớ đã không còn được chuyển tải qua hình ảnh dụng sóng nhưng mà tới đây Xuân Quỳnh đã trình bày một cách thật tâm trực tiếp đầy mãnh liệt nỗi nhớ luôn khiếp sợ âm ỉ trong trái tim mình

Nhớ ai bồi hồi bồi hồi

Như đứng đống lửa như ngồi đống than

Hình tượng sóng và em quyện hòa, đắp đổi nhưng cũng có những lúc em tự tách mình ra khỏi ngừng để nhận thức được rõ hơn về những cảm xúc riêng tư thầm kín của chính mình.

Vẻ đẹp tao nhã được biểu lộ ở khát vọng được hiến dâng hết mình cho ái tình cho cuộc đời để mối tình trở thành bất tử

Làm sao được tan ra

Thành trăm con sóng ốm

Giữa đại dương mập ái tình

Để ngàn năm còn vỗ

Người thanh nữ Xuân Quỳnh đã có những tinh thần khôn xiết sâu sắc vê mối tình của mình. Bà khát khao được tan ra để hòa vào hồ phệ tình ái. Đó chính là khao khát được hiến dâng cho tình yêu – vẻ đẹp thánh thiện của mọi người nữ giới khi yêu. Khát vọng đó bắt nguồn từ một thái độ sống thái độ yêu đính thêm liền với sự hiến dâng.

Chỉ riêng điều được sống cùng nhau

Niềm vui mừng húm với em là bự nhất

Trái tim nhỏ xíu nằm trong lồng ngực

Giây phút nào tim chẳng đập vì anh

Tự Hát – Xuân Quỳnh

Bằng một cách Ý hai và kín đáo số 1, Xuân Quỳnh đã mượn hình ảnh sóng để biểu hiện những cung bậc cảm xúc, Những quy công cụ tình cảm muôn đời của mọi người cô bé khi yêu.

Vẻ đẹp truyền thống được biểu lộ ở những trạng thái cảm xúc đối chọi nhưng thống hàng đầu trong trái tim quần chúng phụ nữ đã mắt.

Dữ dội và dịu em

Ồn ào và yên lẽ

Hình ảnh sóng hình thành với nhiều đối cực khác nhau nhau “dữ dội” – “dịu êm”, “ồn ào” – “im lẽ”. Đây là những mô tả thường thấy ở những con sóng gợi lên những nét giống hệt với thế giới bạn nữ khi yêu lúc thì dịu dàng mặn mà, lúc thì mạnh khỏe mẽ dữ dội. Dù cho người ta phụ phụ nữ có mang bao nhiêu nét đẹp cao nhã thì Hình như cũng có những nét trạng thái không bao giờ đổi thay trong trái tim yêu.

Tuy nhiên với việc dùng nguyên lý điệp cấu trúc liên hiệp hợp với liên từ “và” nối kết các từ trái nghĩa đã biểu thị được những sự thống nhất trong trung ương trạng của toàn cầu cô gái. Tính khí của nhân dân thiếu nữ khi yêu là vậy, nó vốn mang trong mình nhiều đối cực mẫu thuẫn mà đó lại là những mâu thuẫn trong thống số 1 bởi khái quát đều là thể hiện của một trái tim thật tình mãnh liệt.

Trái tim luôn thuỷ phổ thông son sắt Hương đến người ta mình yêu của thế giới phụ cô gái là biểu diễn của một về đẹp mang đậm tính truyền thống của người ta nữ giới Việt Nam.

Dẫu xuôi về phương Bắc

Dẫu ngược về phương Nam

Nơi nào em cũng nghĩ

Hướng về anh một phương

Tác giả sài lối nói đối lập, tương phản liên hợp với các từ ngữ chỉ hướng ngược nhau “xuôi” – “ngược, “Bắc” – “Nam” để miêu tả, khuyếch đại được không gian nhằm biểu thị, khẳng định nỗi nhớ của mình đồng thời gửi gắm trong đó còn là nỗi âu lo trằn trọc suy bốn về lòng nhân dân.

Mặc cho dòng đời có tấp lập, thân bốn bề cuộc sống muôn phương ngắt quãng của không gian , thời gian thì em vẫn luôn hướng về một phương – đó là phương anh. Dấu gạch ngang được sài ở thân dòng nhằm nhấn mạnh mẽ mối tình thủy tầm thường son sắt nguyên vẹn trong trái tim em đối với anh. Khoảng cách muôn trùng có thể ngăn bước chúng ta đến bên nhau cơ mà cần thiết ngăn nổi trái tim yêu cồn cào mãnh liệt này hướng về anh.

Về đẹp truyền thống mô tả ở niềm tin mãnh liệt vào ái tình mặc cho muôn nghìn trở về trước của toàn cầu thanh nữ:

Ở ngoài kia hồ

Trăm ngàn con sóng

Con nào chẳng đến bờ

Dù muôn vời xa vắng

Xuân Quỳnh mượn quy khí cụ của thiên nhiên, của những con sóng để nói tới quy biện pháp của lòng con người . Sóng luôn khao khát vươn tới bờ như em luôn khao khát có anh. Cũng như những con sóng vượt qua mọi ngăn cách luôn vươn tới được bờ, em với trái tim yêu thật tâm này cũng sẽ bước qua mọi thách thức đau khổ đi cập bến bờ vui mừng. Tác phẩm được Xuân Quỳnh viết sau khi trải qua những vỡ, đắng cay của tình ái vậy mà trong trái tim bà vẫn toàn cục một niềm tin son sắt đối với mối tình, với cuộc đời, với người. Niềm tin tưởng của con người con gái thật mãnh liệt mà lại ta cũng thấy được những trằn trọc thắc thỏm không hề dấu diếm của người ta con gái

Cuộc đời tuy dài thế

Năm tháng vẫn đi qua

Như đại dương kia dẫu rộng

Mây vẫn bay về xa

Không biết bởi trái tim của thế giới phụ con gái hay sự tinh tế giàu cảm xúc của mọi người nghệ sĩ cơ mà Xuân Quỳnh là thế giới dễ dung động với sự chảy trôi của thời gian. Bà có tinh thần thâm thúy về sự ngắn ngủi hữu hạn của đời nhân dân giữa tương quan với cái vô hạn mênh mang của vũ trụ, sóng biển gần giống sự mỏng manh sương khói của mối tình

Lời yêu phong thanh manh như màu khói

Ai biết lòng anh có đổi thay

Cấu trúc câu nhượng bộ, tăng tiến “tuy” – “vẫn” – “dẫu”, giọng điệu khẳng định táo tợn mẽ trình diễn niềm tin mãnh liệt son vào cường độ của tình ái vui tươi cuộc sống. Hình ảnh cuộc đời dài rộng, biển mông mênh Có thể được tượng cho những thách thức Khủng lao, bên cạnh đó thách thức kiên cố sẽ vượt qua khoảng cách không gian sẽ được xóa bỏ.

Như vậy dù mạnh khỏe và thanh nhã dù khát khao mãnh liệt bao nhiêu thì toàn cầu phụ nữ trong tình ái vẫn trở về với những vẻ đẹp nàng tính truyền thống muôn đời của địa cầu phụ nữ giới. Đó là những giá trị khác lại của quần chúng. # Việt Nam, đó là diễn tả của cái mà lại Xuân Quỳnh gọi là giá trị loài người:

Đó là ái tình em muốn nói cùng anh

Nguồn gốc của muôn nghìn khát vọng

Lòng tắt để duy trì sự sống

Cho con người thực thụ người hơn

Có thể bạn quan tâm: » Top 10 khách sạn tình yêu Đà Nẵng cùng người thương hâm nóng tình cảm – Halo Travel

Bài thơ sài thể thơ năm chữ không có dấu câu, nhịp ngắn 2/3 từng đợt đều đặn góp phần tạo ra nên âm hưởng của những con sóng vào bờ không nguôi không hoàn thành. Hình như Xuân Quỳnh còn hội tụ xây dựng hai hình ảnh song hành song đôi “sóng – em”. Sóng là ẩn dụ của em với chổ chính giữa hồn giàu khát vọng và những cô động phong lưu tinh vi. Đôi khi em trách mình ra khỏi sóng soi mình vào lòng sống để nhận thức rõ hơn về trung tâm hồn mình. Bài thơ được viết bằng thứ ngôn ngữ dung dị mộc mạc cơ mà cũng rất trẻ trung giàu cô bé tính giàu sức gợi hình, có tính nhạc và biểu cảm cao. Nhà thơ dùng rộng rãi những công cụ tu từ như nhân hóa, điệp cấu trúc hợp lại thành với giọng điệu linh hoạt lúc sôi nổi nồng nàn trong khát vọng mừng húm, lúc lắng xuống với những trăn trở suy bốn về mừng rỡ của cuộc đời. Bài thơ mang âm hưởng của những con sóng từng nhịp vỗ vào bờ cát lúc dũng mạnh mẽ lúc dịu êm.

Người phụ thanh nữ nhân vật trữ tình trong bài thơ mang về đẹp hài hòa giữa những nét đẹp truyền thống khác nhau cùng với đó là về đẹp hết sức thanh lịch dũng mạnh cơ mà vẫn thật thực tâm và tha thiết. Tuy nhiên dù là vẻ đẹp nào thì đó ấn tượng đều là tập kết miêu tả cho khát vọng yêu và được yêu một người phụ thanh nữ. Đó là khát khao và là giá trị muôn đời của bất cứ nhân loại thiếu phụ nào trong ái tình.

Có thể bạn quan tâm: » Làm thế nào để chồng không ngoại tình?

9  bài văn phân tích vẻ đẹp tình yêu truyền thống và hiện đại trong bài thơ sóng của xuân quỳnh (ngữ văn 12) hay nhất

Hình minh họa

Đăng bởi: Đức Việt

Từ khoá: 9 Bài văn Phân tích vẻ đẹp tình yêu truyền thống và lộng lẫy trong bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh (Ngữ văn 12) hay nhất

Xem đính thêm tại Youtube Phân tích vẻ đẹp truyền thống và hiện đại trong bài thơ Sóng của nhà thơ Xuân Quỳnh – Văn mẫu lớp 12

🔖 Đăng ký khóa học của thầy cô VietJack giá từ 250k tại:
📲Tải app VietJack để xem các bài giảng khác của thầy cô. Link tải:
☎️ Hotline hỗ trợ: 084 283 4585
Phân tích vẻ đẹp truyền thống và hiện đại trong bài thơ Sóng của nhà thơ Xuân Quỳnh – Văn mẫu lớp 12

Video bài học hôm nay, cô hướng dẫn các em Phân tích vẻ đẹp truyền thống và hiện đại trong bài thơ Sóng của nhà thơ Xuân Quỳnh của Văn mẫu 12. Theo dõi bài học cùng cô để học tốt hơn nhé!
Đăng kí mua khóa học của thầy tại:
Học trực tuyến tại:
Fanpage:
#vietjack, #vanmau12, #vedeptruyenthongvahiendai

▶ Danh sách các bài Văn mẫu lớp 12 – Cô Nguyễn Ngọc Hà:

▶ Danh sách các bài Văn mẫu lớp 12 – Cô Lê Thị Hiền:

▶ Danh sách các bài học luyện đề THPTQG môn Ngữ văn – Thầy Nguyễn Huy Hoàng:

▶ Danh sách các bài học luyện thi THPTQG môn Ngữ văn – Thầy Nguyễn Huy Hoàng:

▶ Danh sách các bài học luyện thi THPTQG môn Ngữ văn – Thầy Nguyễn Thanh Bình:

▶ Danh sách các bài học môn Vật lý 12 – Thầy Lê Xuân Vượng:

▶ Danh sách các bài học môn Vật lý 12 – Cô Trần Thị Hạnh:

▶ Danh sách các bài học môn Hóa học 12 – Cô Nguyễn Thị Thu:

▶ Danh sách các bài học môn Sinh học 12 – Cô Kim Tuyến:

▶ Danh sách các bài học môn Lịch sử 12 – Cô Phạm Phương Linh:

▶ Danh sách các bài học môn Địa lý 12 – Cô Nguyễn Thị Huyền

▶ Danh sách các bài học môn Ngữ văn 12 – Cô Thúy Nhàn:

▶ Danh sách các dạng bài tập môn Toán 12 – Cô Nguyễn Phương Anh:

▶ Danh sách các bài học môn Toán 12 – Thầy Trần Thế Mạnh:

▶ Danh sách các bài học môn Vật lý 12 – Cô Phan Thanh Nga:

▶ Danh sách các dạng bài tập môn Hóa học 12 – Cô Nguyễn Thị Thu:

▶ Danh sách các bài học môn Sinh học 12 – Cô Quỳnh Thư:

▶ Danh sách các bài học môn Ngữ văn 12 – Cô Vũ Phương Thảo:

▶ Danh sách các bài học môn Ngữ văn 12 – Cô Nguyễn Ngọc Anh:

▶ Danh sách các bài Tóm tắt kiến thức Ngữ văn 12 – Học nhanh nhớ lâu:

▶ Danh sách các bài học Luyện thi THPTQG môn Ngữ văn – Cô Nguyễn Phương Thảo:

▶ Danh sách các bài học môn Toán 12 – Thầy Vũ Văn Ngọc:

▶ Danh sách các bài học môn Toán lớp 12 – Thầy Nguyễn Quý Huy:

▶ Danh sách các bài học môn Toán 12 – Thầy Trần Xuân Trường:

▶ Danh sách các bài học Ôn luyện Toán lớp 12 – Thầy Nguyễn Quý Huy:

KhoaDigi - Khoa Nguyễn Digitial Marketing hiện đang là marketing manager tại CÔNG TY TNHH THƯƠNG MẠI SẢN XUẤT VÀ DỊCH VỤ LION DECOR luôn Cập nhật các thông tin sản phẩm, feedback khách hàng, tin tức nghề mới nhất của Lion Decor.