20 Tháng Một, 2023
9 Bài văn phân tích đoạn trích “Tình yêu và thù hận” của Uy-li-am Sếch-xpia
Uy-li-am Sếch-xpia (1564-1616) là tác giả có góp sức in đậm dấu ấn lên kịch nghệ và văn chương các mới sau. Vở kịch “Rô-mê-ô and Giu-li-ét” được viết vào khoảng những năm 1594-1595, dựa trên câu chuyện có thật về mối hận thù thân nhì dòng họ Môn-ta-ghiu và Ca-piu-lét, tại Vê-rô-na (I-ta-li-a) thời trung thế kỉ. Đoạn trích “Tình yêu và thù hận” thuộc hồi 2, lớp 2 của vở kịch này. Thông qua câu chuyện mối tình của Rô-mê-ô và Giu-li-ét, tác giả ngợi ca và khẳng định vẻ đẹp của tình dân chúng, tình đời theo lí tưởng chủ nghĩa nhân bản. Mời các bạn tham khảo một số bài văn phân tích đoạn trích mà chúng mình đã tổng hợp trong bài viết dưới đây.
Bài văn phân tích đoạn trích “Tình yêu và thù hận” nhất
Uy-li-am Sếch-xpia là tác gia điển hình của nền văn học châu Âu thời kì Phục hưng. Sống vào giai đoạn quá độ từ biện pháp phong kiến sang lao lý tư bản, ông đã nhanh nhạy nắm bắt được hơi thở, mạch đập của thời đại và chui vào thắng lợi của mình. Và sự nghiệp sáng tác của Sếch-xpia là sự phản ảnh và phê phán cả nhị hiện tượng đó. Chế độ bốn phiên bản với những quan hệ giới tính “trả tiền ngay” rất tàn ác của ách thống trị tư sản buổi Lúc đầu đã được ấn tượng và điển hình hoá ở hình tượng tên lái buôn Do Thái Sai-lốc trong vở Người thương gia thành Vơ-ni-dơ và ở căn số vua Lia trong vở Vua Lia. Sự tăm tối, lỗi thời, hủ lậu đầy thành kiến của cơ chế phong kiến già nua đã được phơi bày trong một loạt thảm kịch của ông như Mác-bét, Rô-mê-ô và Giu-li-ét, Ô-ten-lô…
Có thể bạn quan tâm: » 6 Cuốn sách tâm lý học tình yêu hay nhất
Sếch-xpia luôn báo cáo ca tụng con người và đòi quyền sống, quyền tự do thực sự cho họ. Nhân vật của Sếch-xpia là những quả đât thế hệ của thời đại mới, những địa cầu luôn sống bằng chính trái tim của mình, dám cất thông tin nói thuyết trình khát vọng của mình, vượt lên mọi thù hận, mọi ràng buộc xã hội. Rô-mê-ô và Giu-li-ét là đại diện tiêu biểu cho những địa cầu ấy. Trong suốt thời trung thế kỉ, cả châu Âu chìm trong ban đêm của qui định phong kiến và nhà thờ. Mọi quyền độc lập của mọi người hình như đều bị tước bỏ. Tư tưởng nhân văn cao đẹp của nền văn hoá Hi Lạp – La Mã cổ xưa đều bị chìm trong đống đổ nát của những nhà cửa văn hoá từng phát triển rực rỡ.
Thời thượng cổ trái đất ta tụng ca người ta bao nhiêu thì thời trung thế kỉ thế giới bị vùi dập bấy nhiêu. Phong trào văn nghệ Phục hưng có mặt đã kích thích khát vọng của thế giới, đề cao con người và khẳng định địa cầu là cao tay nhất. Hoàng tử Hăm-lét, nhân vật chính của vở kịch Hăm-lét, đứa con ý thức thích thú của Sếch-xpia, đã có một phát ngôn bất tử về nhân dân: “Kì diệu thay là con người, về vẻ đẹp nó sánh ngang với thần thánh, trí óc sánh ngang với thượng đế. Con nhân dân thật là diệu kì, là trung trọng điểm của ngoài hành tinh, là đẳng cấp mẫu của muôn loài. Con loài người phải được mãn nguyện mọi nhu cầu vốn có như ăn, uống, ngủ, nghỉ, các hoạt động nhân gian, sự hiểu biết và sự phát triển về mặt trí tuệ”. Phát ngôn này là sự kế tục tinh thần của Prô-tagô-rốt, nhà triết học cổ đại Hi Lạp: “Con mọi người là thước đo của vạn vật”, là tứ tưởng phổ quát của chủ nghĩa nhân văn trong văn học Hi Lạp thượng cổ và cũng chính là tứ tưởng chủ đạo của văn học thời Phục hưng. Là tác giả tiêu biểu của văn học Phục hưng Anh, Sếchxpia đã biểu hiện thâm thúy tứ tưởng này trong chiến thắng của mình.
Sự béo tròn của Sếch-xpia là thành tích của sự liên minh giữa khả năng, sự hiếu học, sự phát triển rực rỡ của thời đại Phục hưng và hiện thực xã hội Anh cuối thế kỉ XVI, đầu thế kỉ XVII. Với sự thắng thế của tinh thần nhân bản chủ nghĩa, văn học Phục hưng giai đoạn đầu luôn mừng cuống và tràn trề ý thức sáng sủa. Nhưng đến thời đoạn sau, tinh thần tự tin ấy giảm dần bởi sự hiện hữu thờ ơ của những quan hệ bốn sản mới. Những mâu thuẫn thân lí tưởng cao đẹp và hiện thực xã hội đầy cầu kỳ của buổi giao thời giữa phong kiến và bốn phiên bản đã để lại dấu ấn rất đậm nét trong trắng tác của các nhà văn Phục hưng. Và Sếch-xpia là đại diện điển hình hàng đầu. Sự nghiệp sáng tạo nghệ thuật của Sếch-xpia Có thể chia làm nhì giai đoạn. Giai đoạn đầu, trước năm 1600, sáng tác của nhà văn mang âm hưởng lạc quan, đây là thời kì của những vở hài kịch. Giai đoạn sau, từ năm 1600 trở đi, căn bản ông sáng tác bi kịch.
Vở bi kịch Rô-mê-ô và Giu-li-ét viết khoảng 1594 đến 1595, có thể coi là gạch nối tứ tưởng hai giai đoạn sáng tác của ông. Tuy là một bi kịch mối tình, xong là cái chết của nhị người hùng chính mà vở thảm kịch này không để lại âm hưởng thê thảm như những vở thảm kịch ở giai đoạn sau. Rô-mê-ô và Giu-li-ét là một vở kịch thơ xen lẫn văn xuôi bởi vậy dù đã bệnh dịch sang văn xuôi cơ mà tiếng nói hội thoại của người hùng vẫn là những câu văn vần rất uyển chuyển, từng nhịp desgin cho đoạn trích một sức mê say Đặc biệt. Dù là độc thoại hay hội thoại, lời thoại của các anh hùng đều rất giàu chất thơ, có vần điệu.
Sau cuộc gặp gỡ ở buổi dạ hội, cả Rô-mê-ô và Giu-li-ét đều đã mang trong mình mối sầu tương tứ. Và như quần chúng. # ta vẫn nói, khi hai ánh mắt đã gặp nhau, trái tim đã đồng điệu là lúc nhị trung tâm hồn đã thuộc về nhau. Rô-mê-ô và Giu-li-ét là hai nhân loại như thế. Vì vậy, họ thế hệ có phổ thông một cảm xúc và không hò hứa hẹn, họ đã cùng nhau than vãn dưới trăng trong vườn nhà Ca-piu-lét. Những lời độc thoại và đối thoại của đôi trai gái trong Tình yêu và thù hận đã biểu đạt họ là những thế giới biết cảm thương bằng chính trái tim mình.
Đoạn trích gồm nhị phần. Phần 1 gồm sáu lời thoại đầu. Hai mọi người tự nói biểu lộ cảm xúc của mình. Chính cảnh huống kịch này đã làm tăng thuộc tính thật tâm, hấp dẫn của ái tình Rô-mê-ô và Giu-li-ét. Phần 2 là cuộc hội thoại trực tiếp thân nhì loài người. Đoạn trích tập trung trình bày nội dung chính là: mối thù truyền kiếp thân nhì dòng họ không cản trở được nhì trái tim yêu mà lại chỉ làm họ ham hơn mà lại thôi. Họ sẵn sàng vượt lên hoàn toàn để được yêu nhau. Rô-mê-ô và Giu-li-ét đại diện cho những địa cầu khao khát tự do và mừng rơn. Họ sẵn sàng vượt lên hàng rào ấy để giành lấy tự do, hào hứng cho riêng mình. Họ chuẩn bị từ bỏ tên họ của mình để được tới bên nhau. Hành động này không phải là sự vô tình của kẻ dám chối từ người trong gia đình mình, mà lại đó là sự chối từ những định kiến phi lí. Giu-li- ét nói: “đại trượng phu hãy thề là đàn ông yêu em đi, và em sẽ không còn là con cháu nhà Ca-piulét nữa”. Và Rô-mê-ô: “Chỉ cần em gọi tôi là nam nữ, tôi sẽ thay tên đổi họ; từ nay, tôi sẽ không bao giờ còn là Rô-mê-ô nữa”.
Những lời khẩn thiết ấy của nhị quần chúng. # đã chứng tỏ ái tình quyến rũ của họ. Đó là một ái tình tinh khiết và mãnh liệt. Dưới ánh mắt của chàng Rô-mê-ô đang yêu, Giu-li-ét đẹp và dịu hiền hơn toàn thể. Với phái mạnh, “thiếu phụ Giuli-ét là mặt trời”. Rô-mê-ô đã dùng một loạt hình ảnh so sánh toàn thể hàng đầu để biểu đạt vẻ đẹp của nàng Giu-li-ét: “chẳng qua hai ngôi sao đẹp hàng đầu bầu trời có việc phải đi vắng, đã thiết tha nhờ mắt phái nữ nhóng nhánh, chờ tới lúc sao về”. Lời thoại dài nhất của Rô-mê-ô trong đoạn trích là lời truyền tụng vẻ đẹp của con gái Giu-li-ét còn lời thoại dài nhất của Giu-li- ét là đoạn thuyết trình ái tình đắm say của bạn nữ với Rô-mê-ô. Chính lời thoại này của Giu-li- ét biểu thị tư tưởng chủ quản của đoạn trích: “Mông-ta-ghiu là cái gì nhỉ ? […] thì mười phân phái mạnh vẫn cứ vẹn mười.” Rô-mê-ô vượt tường rào vào vườn nhà Giu-li-ét chỉ bởi nhớ cô bé không thể ngủ được. Tình yêu đã làm Đấng mày râu quên đi rằng bởi mối thù truyền kiếp chàng có thể bị thịt chết nếu bị người nhà Ca-piu-lét bắt. Khát vọng yêu là khát vọng của muôn thuở và của mọi dân tộc.
Trong văn học Việt Nam, nữ Kiều dám vượt qua hàng rào lễ giáo phong kiến “Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình” để tới vườn Lãm Thuý thề nguyền cùng nam nhi Kim trong một đêm trăng: Vầng trăng vằng vặc thân trời, Đinh ninh nhị mồm một lời song song. Thì bên sườn cửa sổ tràn ngập ánh trăng trong vườn nhà Ca-piu-lét, Rô-mê-ô và Giuli-ét vượt qua mối cừu địch của hai dòng họ cũng thề nguyền cùng nhau với những lời tha thiết. Cuộc thề hẹn dưới trăng của Rô-mê-ô và Giu-li-ét đã kích thích khát vọng sống của cả thời đại. Tình yêu của họ đã chứng tỏ những thế lực và xiềng xích của những hủ tục, thành kiến của mối quan hệ giới tính phong kiến đã dần mất khả năng. Nó đang bị phá bỏ hoặc tự tan rã. Thời đại trung cổ đã qua đi, địa cầu đã được giải phóng khỏi những luật lệ khắc nghiệt phi lí.
Lời của Rô-mê-ô đã trực tiếp biểu thị điều này, “Tôi vượt được tường này là nhờ đôi cánh nhẹ nhàng nhàng của tình yêu; mấy bức tường đá ngăn sao được ái tình; nhưng mà cái gì mối tình có thể làm là tình yêu dám làm…”. Cuộc hội thoại thân Rô-mê-ô và Giu-li-ét trong đoạn trích đã khẳng định rằng tình yêu có thể vượt lên nguyên vẹn. Và chỉ ái tình có quyền công bố trong trái tim nhị người đang yêu. Tuy đoạn trích không có những xung hốt nhiên đầy kịch tính như các hồi kịch kì cục nhưng mà tính kịch vẫn được trình bày rất rõ qua tiếng nói và hành động kịch, đó là tình cảnh đầy bất trắc, là cảm xúc cảm thương mãnh liệt, là những chần chừ trước sự éo le của tình ái.
Với một giọng văn thấm đẫm chất thơ và hứng thú lãng mạn, Sếch-xpia đã thành lập nên một đêm trăng thề hứa thật trữ tình. Tình yêu trong lành trong trắng của đôi trẻ đặt bên cạnh mối thù hận truyền kiếp khiến cho mối thù ấy trở thành bất nghĩa và mang đầy tính chất phản nhân bản. Ngôn ngữ kịch của Sếch-xpia vốn rất giàu nhạc tính và hình ảnh với những lối ví von so sánh rất đam mê, nhất là những câu Rô-mê-ô mô tả vẻ đẹp của cô bé Giu-li-ét. Mặc dù đã dịch sang văn xuôi mà đó vẫn là những câu văn uyển chuyển, mê say và thấm đẫm chất thơ.
Ngôn ngữ đối thoại giữa Rô-mê-ô và Giu-li-ét tràn trề mối tình thương, nó diễn đạt sự đồng điệu trung khu hồn của nhị quần chúng. # trẻ tuổi. Chỉ một lần gặp nhau với thời gian ngắn ngủi nhưng dường như họ đã hiểu hết những điều mọi người kia muốn nói. Tình yêu của Rô-mê-ô và Giu-li-ét tuy gặp nhiều trở ngại cơ mà họ đều đã gan góc vượt qua, và đến cái chết cũng không li biệt được họ. Cái chết của hai quần chúng đã thức tỉnh và hoá giải được mối thù của nhị dòng tộc. Tình yêu của họ đã làm được điều mà lại chính quyền lực của Vương chủ thành Vê-rô-na cũng không làm được. Mối tình Rô-mê-ô và Giu-li-ét đã trở thành một huyền thoại mối tình thật đẹp, là ái tình lí tưởng cho toàn nhân dạng hình. Cho tới nay quả đât vẫn khao khát một ái tình như thế.
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Bài văn phân tách đoạn trích “Tình yêu và thù hận” số 2
Wiliam Shakespeare là nhà thơ nhà viết kịch tên tuổi của thời kì phục hưng, ông có tấm lòng nhân đạo sâu sắc đây là lý vì ông viết lên những công trình hào kiệt của mình, ông để lại cho nhân loại đọc nhiều cảm xúc trong những thành tích của mình điển hình trong những thành tích đó là bài mối tình và thù hận.
Tình yêu của Rô mê ô và Giu li ét đã nảy nở và vượt qua những sự thù hận đối lập thân nhì đôi lứa và nhì dòng họ, tình yêu của học to lao, và nảy nở trong đêm lễ hội, cuộc gặp gỡ đã khiến cho nhì toàn cầu phát sinh tình cảm, khi biết được sự thù hận giữ nhị dòng tộc, tình ái của họ ngày một bự hơn, khi bị ngăn cản mà lại với một trái tim đẹp nhị quần chúng. # đã vượt qua hết những ngăn cản và tới với nhau như một chân lý sống của cuộc đời. Tình yêu đã béo lên và nó vượt qua mọi sự ngăn cản xiềng xích của nhân dân, lễ cưới của hai mọi người được doanh nghiệp bí mật ở nhà thờ, và nhà thờ là nơi đã chấp thuận mối tình của họ.
Sự thù hận giúp cho học hoang mang trong cuộc gặp gỡ Đấng mày râu trai thì đang nói ghét cái tên của tôi, còn Giu li ét thì bối dối và hoang mang cho tình yêu của mình, cánh mày râu trai đã ngừng khoát từ bỏ dòng họ của mình để tới với ái tình chân chính, cả nhị nhân loại đều bỏ qua những thù hận để bù đắp tạo mối tình của mình. Dù lòng thù hận có béo mà lại ái tình của họ rất mập lao họ vẫn rất quyết liệt để bù đắp cho tình yêu của mình. Thù hận không làm mất đi tình yêu đẹp của họ cơ mà nó khiến cho học có niềm tin về mối tình hơn, sự hi sinh của họ thật khôn xiết đáng quý tình yêu của họ là bất tử.
Lòng thù hận không được xóa bỏ, cơ mà ái tình đang dần cảm hóa những lòng thù hận đó, nó đang xen vào chổ chính giữa hồn những toàn cầu nơi đây và ấp ủ bao niềm tin và cả những hi vọng đang bừng cháy trong địa cầu họ lòng thù hận khó xóa đi được, nó trở nên một sự giao tranh mà nhị bên số 1 định phải có một bên thắng và một bên thua mà lại tình ái bự lao của nhì dân chúng đã vượt qua những cái gọi là thứ tự để thắng được sự thù hận để đến được với nhau. Tình yêu thật phệ lao , nó có thể cảm hóa tất cả, và cả những cái gọi là gieo neo và gian nao hàng đầu nó Có thể vượt qua.
Nỗi đau đớn trong thảm kịch tình ái của nhì trái đất khi hai người phải có những quyết định để phục thù cho dòng họ của mình, Rô mê Ô phải làm thịt Ti phiên bản để trả thù cho dòng họ của mình. Giu li ét khổ cực do biết được sự thật là người giết mổ anh con bác mình chính là chồng của mình. Đây là những cảnh huống bi kịch của ái tình giữa nhị dòng tộc, nhị địa cầu đang lâm vào những hoàn cảnh cực kì ngang trái một bên là tình cảm tình nhân một bên là tình yêu, họ phải quyết định và đưa ra, nhưng nó thật thống khổ đối với nhì loài người khi đó đều là quyết định thân một mất một còn, sự báo oán nó là sự mất mát phệ lao, khi tình thù hận giữa nhị dòng họ càng ngày càng được tăng trào, nó đang cảm hóa những toàn cầu có tấm lòng thù hận. Tình yêu của nhị toàn cầu đang phải đối mặt với những trái ngang của cảnh ngộ, bởi vì vậy họ thật thống khổ khi biết được những sự thật rất nghiệt ngã và họ quyết định ngừng khoát khi đưa ra những quyết định của mình.
Hai quần chúng. # mơ ước được xóa đi những lòng thù hận giữa nhị dòng họ mà không có cách nào có thể lý giải và xóa bỏ được, hai mọi người quan trọng sống cùng nhau bởi vì vậy họ đã quyết định chết cùng nhau, cuộc đời của họ rất mập lao khi phải đưa ra những quyết định đó, nhị người ta chết đi không phải là sự âm u trong tình ái nhưng đó là chết đi để thức tỉnh những mọi người đang sống về những xóa giải của sự thù hận, trái đất muốn để lại cho những quần chúng. # đang sống giá trị thực thụ của sự an toàn và những nỗi niềm của phấn khởi, nao nức là việc cơ mà nhì ngườimuốn giành cho quần chúng. # còn đang sống, cái chết của họ có ý nghĩa thức thức giấc rất sâu sắc, sự thù hận đã được xóa bỏ bằng cái chết của hai quần chúng. #.
Tình yêu của Rô mê ô và Giu li ét là tình yêu của lòng cao thượng và sự thủy chúng son sắt, nó xóa bỏ mọi hiềm khích và ngăn cản của thế giới để tới với nhau, những khi lòng thù hận trong nhị dòng tộc được dâng cao, họ đã quyết định chết cùng nhau để xóa bỏ đi những lòng thù hận đó, tình yêu của họ thật cao thượng biết bao khi họ đang phải sống trong những lòng thù hận đó. Thật khổ đau biết bao khi mối tình của họ không được sống cùng với nhau, họ trông chờ một niềm tin và những điều mới lạ sẽ tới những sự thật nghiệt bổ biết bao, khi sự thù hận và những ước mong phục thù cho nhì dòng họ được dâng trào, nó cướp đi một cuốc ống vui tươi đáng nhẽ nhị loài người được hưởng nó.
Với lòng nhân đạo của mình tác giả đã viết lên những tình tiết rất đặc sắc của mình trong vở kịch này, trong item tác giả đã nói lên những chổ chính giữa bốn và cả những ước vọng lớn lao của mình đối với những người hùng đắt giá của mình. Rô mê ô và Giu li ét là những người hùng có mối tình cao thượng, nó biến thành lý tưởng trong tình ái bởi sự cao thượng vì đã hi sinh để đánh đổi lấy được sự độc lập và khoái lạc của nhị dòng họ, khi ban đầu bị sự ngăn cản của nhân loại, với tình yêu đẹp đã vượt qua mọi ngăn cản để tìm thấy sự độc lập trong mối tình, tình yêu của họ thật mập mạp và nó đã để lại nhiều cảm xúc cho mọi người đọc.
Tình yêu và thù hận đã nêu lên ái tình vệ sinh, dũng mãnh vượt lên trên cả thù hận. Đây là bài thơ hay về tình ái nó khẳng định tình ái là nó sẽ vượt qua mọi thù hận để cập được tới bến bờ của sướng. Tình yêu vệ sinh của họ đã làm hóa giả mọi niềm đau và cả những thù hận, tình yêu của học thật linh nghiệm và đáng kính.
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Bài văn phân tách đoạn trích “Tình yêu và thù hận” số 3
những năm trước, trong đời sống văn học nhân hình dáng, ái tình Rô -mê-ô và Giu-li-ét trong vở bi kịch cùng tên của đại văn hào Sếch-xpia đã trở thành biểu tượng cho tình ái thông thường thủy, mãnh liệt. Mặc dù bi kịch kết thúc, cả hai đều chết, mà tình yêu của họ đã thành phầm, thù hận được xóa bỏ. Mười sáu lời thoại trong trích đoạn của hổi thứ nhị đã bắt đầu hé mở về một quyện lực tình yêu vượt lên thù hận.
Uy-li-am Sếch-xpia (1564-1616) là một nhà thơ, nhà viết kịch nhân tài của nước Anh và của nhân phong cách thời kì Phục hưng, thời kì của chú nghĩa nhân bản, kết tinh khát vọng tự phóng thích cùa toàn cầu khỏi những xiềng xích phong kiến và chù nghĩa khổ hạnh của Giáo hội thời trung cố. Với một kĩ năng xuất chúng, Sếch-xpia đã để lại 37 vở kịch mà đa số đều biến thành kiệt tác trong kho tàng văn học nhân giao diện. Từ những điển hình nghệ thuật sinh động, ông tái tạo trung thành hiện thực xã hội nước Anh đương thời; phơi bày phạm tội phong kiến với những mối hận thù truyền kiếp, những quan niệm luân lí và lễ giáo khắc nghiệt. Đổng thời cũng chỉ ra bộ mặt xảo trá của chù nghĩa că nhân tứ sản thời kì đầu. Tác phẩm của ông là tiếng nói của lương tri tao nhã, của khát vọng chủ quyền, của lòng có nhân minh mông, niềm tin bất diệt vào hào kiệt hướng thiện và sức vươn dậy để khẳng định cuộc sống của trái đất.
Rô-mê-ô vù Giu-li-ét là một trong số những vở kịch tăm tiếng nhất của Sếch- xpia. Dựa vào câu chuyện về món nợ máu truyền kiếp của haị dòng tộc Môn-ta-ghiu yà Ca-piu-lét xảy ra thời trung cổ, tại tỉnh thành Vê-rô-na (I-ta-li-a), Sếch-xpia đã xây cất thành một thảm kịch tình yêu và cho ra mắt công chúng lẩn đầu tiên vào năm 1595. Từ bấy tới nay, vở kịch dã đựợc căn bệnh, được chuyển thể và được công diễn ở hầu khắp các nước trên toàn cầu, vở bi kịch dựa trên xung bất chợt giữa người ta với khát vọng yêu dương mãnh liệt và tình cảnh thù địch vây hãm. Vượt lên chu toàn, Rô- mê-ô và Giu-li-ét đã đến với nhau: Mối tình của họ khẳng định nhựa sống, sức vươn dậy vượt lên trên mọi tình cảnh trói buộc người ta. Mối tình đó cũng là lời kết án gang thép, tố giác xã hội phong kiến là mối trường thụ địch với tình người, với chú nghĩa nhân bản.
Trong cuộc gặp gỡ kì duyên tại buổi dạ hội, tiếng sét mối tình đã đưa bước chân Rô-mê-ô quay trở lại, vượt tường vào vườn nhà Giu-li-ét. Vầng trăng thần tình, lãng mạn đã được nghe ngôn ngữ chiều chuộng cháy bỏng thốt ra từ hai con tim của nhị quần chúng. # tuổi (rẻ. Mười sáu lời thoại trong trích đoạn “Tình yêu và thù hận” chính là lời cùa mối tình ham mê, lãng mạn đã đưa Rô-mê-ô và Giu-li-ét vượt lên trên hiện thực nghiệt nga của những toan tính, thù hận.
Rô-mê-ô và Giu-Ii-ét không hội thoại với nhau ngay từ đầu bởi vì hiện thời họ chưa nhìn thấy nhau, đúng hơn là chỉ có Rô-mê-ô nhìn thấv Giu-li-ét. Chán” chết thật trong tán lá của khu vườn nhìn lên ban công, thấy Giu-li-ét đương đại ngời lên giữa trăng sao. Chàng độc thoại mà như là hội thoại bằng những lời kính yêu có cánh. Giu-li- ét không nhìn thấy Ró-mê-ô dưới tán lá khu vườn cơ mà có một nam giới Rô-mê-ô hiển hiện trong tâm trí người vợ cùng với hận thù thân nhì dòng họ khiến trái tim phụ nữ thổn thức mà như có ai đó bóp nghẹt. Nàng nói với mình nhưng mà như nói cùng Rô-mê-ô. Từ lời thoại thứ bảy trở đi, ngôn từ của Rô-mê-ô và Giu-li-ét mới chuyên sang tình thế hội thoại. Sáu lời thoại đầu tiên thực chất là những lời độc thoại nội trung khu mà lại được thốt lên thành tiếng, nói khe khẽ, nói một mình, chí để mình nghe.
Trong vui sướng đoạn trích, Rô-mê-ô có ấn tượng 8 lời thoại cơ mà cần thiết hơn cả là lời thoại trước tiên cũng là lời thoại dài hàng đầu. Tuy đây chỉ là lời độc thoại nội tâm mà dưới ngòi bút nghệ thuật của Sếch-xpia, trong độc thoại nhịn nhường nhơ vẫn có hội thoại, bảo đảm tính sinh động của kịch. Rô-mê-ô lúc thì như nói với Giu-li-ét vừa sinh ra ở cửa sổ (Vầng dương đẹp rươi ơi…), lúc thì như đang đối thoại với chính mình (cô bé; đang nói kìa…). Đầu tiên, khi thấy Giu-li-ét sinh ra, Rô-mê-ô choáng ngợp trước nhan sắc hoàn toàn của đàn bà. Lúc này đang là đêm khuya, một đêm trăng sáng (dạ hội vừa dứt, Rô-mê-ô cùng người chơi bè ra về cơ mà nam nhi quay lại ngay, trèo tường vào vườn).
Trong khung cảng ấy, Rô-mê-ô dễ so sánh nhân loại đẹp với chị Hằng; mà dưới con mắt của con trai, vầng tráng phân bì sao được với Giu-li-ét. Nhà văn đã để cho Đấng mày râu so sánh nhân dân đẹp với mặt trời mọc lúc rạng đỏng khiến mặt trăng thành héo hắt. Lợt lạt. Lời chí dẫn cho biết Giu-li-ét đã có mặt trên cửa sổ. Thế nhưng Ró-mê-ô vẫn nói: “Vầng dương đẹp iươi ơi, hãy mọc lẻn đi…”. Cũng như vào lúc bình minh-, vầng thái dương nhàn nhã mọc lên ớ chân mây sau những tia sáng báo hiệu trước tiên, Giu-li-ét thoáng sinh ra ở cửa sổ rồi, nhưng mà thiếu nữ sẽ hiên ra rực rỡ hơn.
Từ hình ảnh bao quát của Giu-li-ét, Sếch-xpia để cho mạch suy nghĩ của Rô- mê-ô tâp trung vào đôi mắt đẹp của đàn bà một cách khôi lỏi bằng cách chuyển dấn: “Nàng nhìn kìa, mồm nữ có nói gì dâu… Đôi mắt con gái đọc tin”, ánh mắt lấp lánh khiến Rô-mê-ô ngỡ là đôi môi mấp máy! Hợp lí lắm. Trong khung cảnh đêm trăng. Rô-mê-ô so sánh đôi mắt thanh nữ như nhị ngôi sao đẹp số 1 bầu trời. Nhưng đôi mắt người vợ chỉ đẹp như nhị ngôi sao thôi ư, dù đó là nhị ngôi sao đẹp nhất bầu trời? Qua chổ chính giữa hồn đắm say của nam nhi, chẳng ngôi sao nàọ có thể suy bì được với đổi mắt đẹp kia! Sếch-xpia để cho người hùng cùa ông đặt ra may giả định: Sao xuống nằm dưới đổi lông mày kia ư?… Đôi mắt phụ nữ lên thay cho sao ư?… Một cách cực kỳ tự nhiên, giả định thứ nhất hướng mạch suy nghĩ cùa Rổ-mô-ô chuyển sang ca ngơi đôi gò márực rỡ cùa thiếu nữ tưởng như lúc nào khổng biết, dản đến ý rốt cuộc: “Kìa, nữ tì má lên bàn tay /”…
Lời thoại trước nhất đã bộc lộ tầm si mê của Rô-mê-ô trước nhan sắc địa cầu đẹp. Mạch suy nghĩ của cánh mày râu diễn ra theo lớp lang hợp pháp và mối liên tưởng, so sánh của chàng xứng đáng với khung cảnh lúc bấy giờ. Tâm trạng Rô-mê-ô khá thuận lợi. Ta chỉ bắt gặp ở Đấng mày râu tình yêu say đắm không chút do dự. Điều đó diễn đạt ngay từ lời thoại thứ số 1. Lời thoại thứ năm (nói Riêng – Mình cư yên lặng hay là đọc tin nhỉ”. Chẳng phải là dấu hiệu lừng khừng của nam giới khi biết được nỗi lòng Giu-li-ét (lời thoại 4). Chàng có thể trả lời ngay, giải đáp hoàn tất khoát.
Tâm trạng Giu-li-ét cốt truyện tinh xảo hơn. Vừa gặp Rô-mê-ô tại buổi dạ hội, lúc này về phòng, đứng bên cửa số nhìn ra vườn trong đêm lặng im, tướng không tồn tại ai, cô gái đã thốt lên thành tiếng nỗi niềm tây. Những lời trực tiếp phân trần ái tình mãnh liệt không chút che giấu, không chút ngượng ngùng (các lời thoại 4, 6). Qua mấy lời thoại ấy, kể cả nhị tiếng “ôi- chao /” (lời thoại 2), ta thấy Giu-li-ét tuy chưa đầy 15 tuổi nhưng mà rất chín chắn, cảm chiếm được mối tình của mình có thề sẽ vấp phải trở ngại là thù hận giữa hai dòng họ.
Thông thường, toàn cầu bạn nữ không chủ động giãi tỏ mối tình với người ta mình yêu. Do vô tình mà Giu-li-ét đã làm chuyện đó. Khi biết có kẻ đã nghe được nỗi lòng của mình, mới đầu có thể nàng nghi người ta đứng tắt hơi trong bóng tối kia là kẻ lạ lẫm (lời thoại 8), rồi nữ giới rõ đó chính là Rô-mê-ô (lời thoại 10). Trong lời thoại 10, chẳng phải tình cờ Giu-li-ét lại nhắc tới dòng tộc Môn-ta-ghiu của Rô-mê-ô, mối thù hận của hai dòng họ vẫn ám ảnh nàng. Các lời đáp của Rô-mê-ô (lời thoại 7, 9, I I) với các từ ngữ “lứa đôi, thanh nữ tiên yên quy’, với quyết trung ương hoàn thành khoát hoàn tất bỏ dòng họ Môn-ta-ghiu chưa vững chắc ái tình thật sự của Rô-mê-ô đối với nữ. Vì vậy Giu-li-ép mới hỏi một câu tưởng như thừa: ”Anh làm thế nào mà đến được chốn này, anh ơi, và tới làm gì thế?”
Lời đáp của Rô-mê-ô (lời thoại 13) với từ “tình yêu” lần đầu được nói tới và nhắc đi, nhắc lại đến bốn lần dù khiến cho Giu-li-ét tin rằng Rô-mê-ô yêu mình. Nàng tin vào mối tình mà lại thiếu phụ vẫn chưa thê tin yêu tuyệt đối về cường độ của ái tình. Chàng đã vượt được mấy bức tường đá vào đây, cơ mà liệu có việc được mối hận thù giữa nhị dòng tộc hay không?
Lời đáp của Rô-mê-ô (lời thoại 15) đã giải tỏa mối lần khần của Giu-li-ét và câu: “Em chằng đời muốn họ bắt anh vị trí đây” là lời cô bé tế hai thoả mãn tình yêu của Rô-mê-ô, nổi trội hẳn với những lời lẽ quá dạn dĩ ban đầu khi bạn nữ tưởng không có ai nghe thấy.
Diễn biến vai trung phong trạng của Giu-li-ét trình diễn rõ nữ yêu Rô-mê-ô nhưng mà chần chừ Rô-mê-ô có yêu mình không, thanh nữ sẵn sàng vượt qua thù hận giữa hai dòng họ mà lại lưỡng lự Rô-mê-ô có chuẩn bị vượt qua như thế không. Qua 16 lời thoại, chủ đề “ái tình và thù hận đã được giải quyết”. Xung bất chợt được coi là nổi trội cơ phiên bản của kịch. Xung bỗng nhiên trong kịch là sự, va chạm gay gắt thân những lực lượng đối địch, giữa nhị hoặc nhiều anh hùng, nhiểu ý kiến, thái độ dị thường nhau trước cùng một tình huống, hoặc thân cá nhân với tình cảnh; xung hốt nhiên cụng có thể xảy ra ngay trong lòng địa cầu. Xung thốt nhiên kịch chi phối chủ động của các anh hùng và từng bước đòi hỏi phải được giải quyết để thúc đẩy chủ động kịch. Thông thường, xung chợt là cơ sở của hành động kịch. Tuy nhiên, không phải bất cứ hành động kịch nào cũng được thành lập trên cơ sở các xung bỗng dưng.
Trong đoạn trích “Tình im và thù hận”, ta dễ nghĩ rằng có xung đột nhiên giữa tình yêu của Rô-mê-ô và Giu-li-ét với mối thù hận thân nhì dòng họ Ca-piu-lét và Môn-ta-ghiu. Đúng là mối hận thù giữa hai dòng họ có thể cản trở tình yêu của đôi trẻ. Nhưng với tuyệt hảo những cốt truyện trung tâm lí của Rô-mê-ô và Giu-li-ét diễn ra qua 16 lời thoại, ta không thấy có sự xung đột nào cả, không tồn tại một lực lượng nào có mặt cản trở tình yêu của họ. Rô-mê-ô gặp Giu-li-ét và yêu phái nữ không một tẹo lần khần, không biết, không có sự giằng xé nội chổ chính giữa. Trước sau, bởi vì tình yêu, Rô-mê-ô chuẩn bị từ bỏ tên họ của mình, con trai cũng đã khẳng định điều đó nhiều lần với Giu-li ét. Giu-li-ét có nhiều ngần ngừ, mà là chần chờ không biết Rô-mê-ô có vượt qua được mối hận ihù kia không, đắn đo về phía Rô-mê-ô chứ khống phải về phiên bản giữa nữ. Có thể nói, ở đây không có xung đột thân giữa mối tình và thù hận mà lại chi có mối tình thuần khiết, mãnh liệt vượt lên trên hận thù.
Khát vọng tình ái luôn luôn cháy trong trái tim nhân dân mà không phải ai cũng đủ dũng khí và cường độ để đưa tình ái vượt lên mọi rào cản. Sức táo bạo phải được sản xuất nên bởi sự cộng hưởng của nhị trái tim yêu. Rô-mê-ô và Giu-li-ét chỉ bằng 16 lời thoại đã cho chúng ta thấy rõ cường độ của sự cộng hưởng ấy. Họ không chi đưa tình yêu vượt qua rào cản nhưng mà còn khiến ái tình thú vui để trở thành bất tử. Thiên tài nghệ thuật của Sếch-xpia cùng với tư tưởng nhân bản của thời đại ông đã cộng hưởng để khiến cho điều huyền diệu đó.
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Bài văn phân tách đoạn trích “Tình yêu và thù hận” số 4
Uy-li-am Sếch-xpia (1564-1616), hiện ra trong một người trong gia đình doanh nhân dân gian ở thành thị Tây Nam nước Anh. Ông được mệnh danh là nhà viết kịch thiên tài, là “nhân dân vĩ đại” của nhân giao diện trong thời kỳ Phục Hưng. Ông đã để lại một khối lượng tòa tháp rất béo tốt gồm 37 vở kịch và đều được được xếp vào hàng kiệt tác với nhiều thể kiểu dị thường nhau. Rô-mê-ô và Giu-li-ét là vở thảm kịch kinh điển về mối tình, là tuyệt bút văn học có mặt dựa trên mối thù hận có thực của nhì dòng tộc Môn-ta-giu và Ca-piu-lét tại I-ta-li-a thời trung cổ.
Sếch-xpia bằng ngôn ngữ nhân văn và bốn tưởng thanh nhã, khát vọng hòa bình mãnh liệt đã mang đến một tình ái sạch mà không kém phần mãnh liệt, sử dụng tình yêu nguyên lành ấy để hóa giải đi mối hận thù của nhì dòng tộc vốn đã in sâu trong vai trung phong trí hai nhân dân trẻ tuổi. Đoạn trích Tình yêu và thù hận trích trong lớp hai, hồi II của vở kịch là những lời chổ chính giữa sự tận đáy lòng của đôi trai tài gái sắc, nhị trái tim cùng hướng về thứ ái tình thực thụ, chuẩn bị từ bỏ, vượt qua những rào cản thù hận dòng tộc để đến bên nhau.
Tình yêu của Rô-mê-ô và Giu-li-ét là tình yêu trên nền thù hận, với Giu-li-ét sự thù hận của hai dòng tộc được nhắc đến như một nỗi sợ, nỗi ám ảnh thường trực, thanh nữ quan yếu giấu nổi sự khiếp sợ, luống cuống lặp đi lặp lại trong từng lời thoại. Nàng thắc thỏm cho tình yêu mới chớm nở, phấp phỏng cho số phận của địa cầu mình yêu và của cả chính bạn dạng thân người vợ. Khác với Giu-li-ét, Rô-mê-ô khi đối mặt với mối tình và với thù hận của dòng tộc, Đấng mày râu lại có cách nghĩ và một thái độ khác hẳn, mà có nhẽ rằng đó là đặc điểm riêng của quý ông, mang trong mình sự quả cảm, cứng cỏi. Chàng luôn mang trung tâm thế chuẩn bị, vượt lên trên thù hận với thái độ quả quyết, chuẩn bị từ bỏ cả tên họ, từ bỏ cả dòng tộc bởi tình ái với Giu-li-ét, đối với đại trượng phu trai trẻ ái tình của con trai có thể vượt lên trên chu toàn, vượt lên cái bóng đen bi quan mãi quanh quéo quẩn quanh giữa hai dòng tộc.
Thế mà lại Rô-mê-ô cũng lại có một mối luýnh quýnh Đặc biệt, điều đó nằm ở tình yêu của Giu-li-ét, đàn ông lẩn quất cong vắt bởi những câu hỏi, những đo đắn về vị trí của mình trong trái tim phụ nữ, vì nếu yêu mình sao nằng còn hồi hộp và cứ mãi ậm ờ, không hoàn tất khoát như thế. Rô-mê-ô nói “Ánh mắt của em còn nguy hiểm cho tôi hơn nhì chục lưỡi kiếm của họ”, hóa ra trong đôi mắt nam giới trẻ trai, chỉ có duy nhất Giu-li-ét khiến quý ông không yên lòng, khiến chàng phải e dè, vì quý ông đã yêu phụ nữ quá sâu đậm, một lời từ khước của con gái cũng khiến Rô-mê-ô đau buồn hơn là vài chục lưỡi kiếm cắt vào da giết thịt. Cũng có thể thấy rằng tuy cả hai nhân vật có những nghĩ suy Đặc biệt nhau mà họ đều nhắc tới hận thù, nhưng không phải để khơi dậy hay khoét sâu nó mà lại nhắc đến để tìm cách vượt lên trên hận thù, để vun đắp ái tình thế hệ chớm nở của mình bằng nguyên lành trái tim và hi vọng cháy bỏng.
Trong đoạn trích chúng ta có thể nhận thấy rằng có nhị hình dáng đối thoại một là độc thoại nội trung ương, và một là màn đối thoại trực tiếp của nhì hero. Trước hết màn độc thoại của từng người hùng chính là những lời sâu tận đáy lòng nhưng họ muốn giãi tỏ cùng trăng sao, họ muốn nói ra cho thỏa nỗi lòng mong nhớ. Những lời muốn ngỏ của Rô-mê-ô rất là nhiều và được biểu đạt qua những lời độc thoại rất dài khi quý ông ngắm trộm Giu-li-ét bên khuông cửa sổ “Kẻ chưa từng bị thương thì há sợ gì sẹo…mơn trớn đôi gò má ấy”. Bối cảnh gặp gỡ của nhì địa cầu là một đêm trăng sáng, không gian yên lặng u tịch, trên trời những bởi sao nhỏ nhắn nhấp nhánh, có thể nói đây là không gian khôn xiết ăn nhập để mái ấm hẹn hò.
Có một điều đáng chuyên chú là trong mắt con trai Rô-mê-ô vẻ đẹp của Giu-li-ét sánh ngang với “mặt trời”, điều ấy khởi hành từ nhiều nguyên nhân, trước tiên là từ vị trí đứng của Rô-mê-ô khi nam nhi hướng mắt lên bắt gặp vẻ đẹp của thế giới phái nữ trẻ trung, rực rỡ, vẻ đẹp ấy gần giống ánh dương ấm áp sáng chói trung tâm hồn hồn nam nhi. Khác biệt, nếu như Lúc đầu cô bé hình thành không gian chỉ có mình ánh trăng thanh lãnh thì đến khi Giu-li-ét tới bên cửa sổ, vẻ đẹp của cô bé tỏa ra thứ ánh sáng cạnh tranh với tự nhiên, thậm chí lấn át của ánh trăng giúp cho nó biến thành nhợt nhạt xanh lè, điều ấy khiến Rô-mê-ô chỉ có thể liên tưởng đến mặt trời, thứ ánh sáng độc hàng đầu, mũm mĩm nhất. Bên cạnh đó, xuất hành từ thần thoại La Mã về mặt trăng, mà phiên bản thân Rô-mê-ô lại ao ước một ái tình thực tại, tươi đẹp gần sát với trần thế, như vậy Giu-li-ét của phái mạnh phải xứng đáng với hình tượng mặt trời rét mướt.
Thêm nữa, Giu-li-ét lại xuất hiện trong cuộc đời cánh mày râu, lúc nam nhi rơi vào tuyệt vọng, chán ngán do nỗi bi hùng thất tình, chính mối tình của phụ nữ đã hồi sinh tâm hồn nam nhi, khiến quý ông trở lại sự tươi vui, rực rỡ. Chàng Rô-mê-ô đã có một sự so sánh ngầm rằng, chính Giu-li-ét đã mang đến cường độ, củng cố nguồn sống, là sự hiện diện tuyệt đối quan yếu trong cuộc sống chàng, tựa như mặt trời với Trái Đất, nhờ có sức mạnh ấy mà chàng có thể vượt lên trên thù hận của gia tộc, rũ bỏ hết chu toàn, kể cả họ tên để gan góc đeo đuổi tình ái. Bên cạnh vẻ đẹp tựa ánh sáng mặt trời, vẻ đẹp của Giu-li-ét hiện lên trong ánh mắt đam mê tình của cánh mày râu Rô-mê-ô được đặc tả qua đôi mắt, cánh mày râu so sánh duyên mắt ấy tựa như nhì vì tinh tú sáng nhất trên bầu trời, từ đó sài làm đòn bẩy nâng cao vẻ đẹp phụ nữ thần trong mắt Đấng mày râu.
cũng có thể thấy rằng, rất cả các cách so sánh, cách gọi của Rô-mê-ô dành cho quả đât chị em anh yêu đã biểu hiện một đặc điểm của chủ nghĩa nhân văn thời Phục Hưng, vẻ đẹp của mọi người đã được tôn vinh để sánh ngang với vẻ đẹp của dải ngân hà, mang tầm vóc ngoài trái đất, thậm chí còn vượt trội hơn cả vẻ đẹp của tự nhiên. Và vẻ đẹp của Giu-li-ét đã thổi bùng lên ngọn lửa yêu đương mãnh liệt ở Rô-mê-ô và cũng từ vẻ đẹp ấy đã thức dậy những khao khát được giãi bày, được gần gũi được chia sẻ, được thấu hiểu, điều ấy diễn giả qua lời thoại của Đấng mày râu “Ôi, giá thanh nữ biết nhỉ”.
Nếu như Rô-mê-ô chỉ đơn giản là chìm đắm trong sự si mê của tình yêu bay bổng thì Giu-li-ét lại bị níu kéo bởi thực tại, một thực tại đau lòng, đó là mối thù sâu như đại dương giữa nhị gia tộc. Ta có thể thấy rõ điều đó chăm chú lời thoại nội trung khu của bạn nữ, “Ôi chao!” một lời thoại rất ngắn ngủi, ngoại giả chúng ta có thể thấy những cảm xúc chất chứa dồn nén ở trong ấy, đó là tình cảm gói ghém dành cho mối tình trước hết của mình, mà cũng là tiếng thở dài thắc thỏm khi nghĩ đến việc con trai là phái mạnh của dòng tộc Môn-ta-giu. Dường như đó cũng là nỗi lưỡng lự của người vợ về ái tình của Rô-mê-ô dành cho mình liệu đã đủ mập lao, đủ thật tình hay chưa. Đến lời thoại thứ nhì, đàn bà gọi tên bà xã một cách rất tha thiết “Ôi Rô-mê-ô, nam nhi Rô-mê-ô”, thể hiện tình cảm trong mình một cách mãnh liệt, nhưng mà kèm theo đó lại là một câu hỏi đầy xót xa “Sao cánh mày râu lại là Rô-mê-ô nhỉ?”.
Đồng thời con gái cũng tức thời nghĩ ra ngay cách thức là một trong hai loài người họ phải từ bỏ dòng tộc, có thể thấy rằng mối tình của Giu-li-ét dành cho Rô-mê-ô là cực kì bự lao, là lời méc bảo thật tình của trái tim. Tuy nhiên khi đã nói ra những cơ chế ấy, Giu-li-ét đã dùng những phép tắc để bảo vệ, biện minh cho việc từ bỏ dòng họ bởi tình ái “Chỉ có tên họ…đổi lấy cả em đây!”. Bên cạnh đó Giu-li-ét đã không còn là cô bé nhỏ 14 tuổi nữa nhưng đã vụt trưởng thành, chín chắn, có thể nói tình ái của con gái cũng chẳng kém Rô-mê-ô mãnh liệt sâu sắc và chân thành.
Sau khi dứt phần độc thoại nội tâm, hai người hùng có có cuộc chạm mặt chính thức, trong những lời mà lại Giu-li-ét nói đều trình bày một nỗi thấp thỏm thường trực, phái nữ luôn gợi nhắc về mối thù của hai đại gia tộc mà hiện giữa của nỗi rối trí ấy chính là bức tường rào nhà nữ. Bức tường đá ấy xung quanh khu lâu đài nhà Ca-piu-lét để bảo vệ dòng tộc khỏi sự bỗng nhiên nhập của những kẻ có ý đồ ác độc, bên cạnh nghĩa tả thực thì bức tường này còn mang nhiều ý nghĩa biểu trưng, đó là sự ngăn trở ái tình, là rào cản, là mối thù sâu đậm của hai dòng họ, nó còn là biểu tượng cho nỗi luýnh quýnh của Giu-li-ét về mối tình của Rô-mê-ô, mối tình của nam giới liệu có đủ thực lòng, đủ phệ để vượt qua những ngăn trở hay không, và trái lại. Đặc trưng Giu-li-et còn thuyết trình nỗi lo sợ luôn túc trực khi gọi chính khu vườn nhà mình là “tử địa” và cảnh báo cho Rô-mê-ô rằng nếu nam nhi bị bắt gặp đại trượng phu sẽ bị giết mổ chết không nghi ngờ.
Trái lại Giu-li-ét thì nghĩ suy của Rô-mê-ô lại thoáng và nhẹ nhàng nhàng hơn rất nhiều, giả dụ Giu-li-ét nhắc về thù của hai dòng tộc, thì Rô-mê-ô đã ngay lập tức khẳng định quý ông chuẩn bị từ bỏ tên họ để xóa bỏ mối thù. Chàng cũng xóa tan mọi băn khoăn thắc thỏm của Giu-li-ét về tình ái của đàn ông bằng cách khẳng định bảo đảm về tình ái mãnh liệt dành cho chị em “mấy bức tường đá ấy làm sao ngăn nổi mối tình”, “thê thiếp em ngăn sao nổi tôi”,… hình bóng bức tường trở nên đòn bẩy, là công thức chính minh cho tình ái của Rô-mê-ô.
Mối tình của Rô-mê-ô và Giu-li-ét đã khẳng định một cách mạnh bạo mẽ sức sống và sự vực dậy dũng mạnh mẽ vươn lên trên mọi nghịch cảnh của cuộc đời, mọi giới hạn của trái đất. Dẫu có là bi kịch mà thành phầm của Sếch-xpia đã mang đến cho toàn nhân hình trạng những nhận thức to về tình yêu, về sự khắc nghiệt của khí cụ phong kiến, sự thù hận của tình người ta và bắt buộc số 1 chính là chủ nghĩa nhân bản sâu sắc mà ông muốn đề cao.
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Bài văn phân tách đoạn trích “Tình yêu và thù hận” số 5
Sếch-spia là một nhà biên soạn kịch khôn xiết nổi tiếng của nước Anh, ông đã từng được coi là bước ngoặt thanh lịch mũm mĩm hàng đầu từ trước đến hiện nay trái đất chưa từng thấy, vì trong văn của ông mang đẳng cấp chủ nghĩa nhân bản, đề cao giá trị của nhân dân, diễn tả khát vọng giải phóng khỏi sự giam giữ của cơ chế phong kiến, một trong số những tòa tháp tiêu biểu là “Tình yêu và thù hận” trích Rô-mê-ô và Giu-li-ét, item nói về ái tình đằm thắm thân thế giới với loài người, đặc trưng là những đôi trai gái, mà bởi sự hiện tượng xã hội đã vùi dập mối tình đó bằng cách cướp đi sự sống của những quần chúng đó.
Tác phẩm trình diễn rõ nét xung thốt nhiên kịch là sự va chạm thân những lực lượng đối địch, những ý kiến dị biệt nhau dẫn đến thái độ không liên hiệp, từ đó có cái nhìn về một chủ đề dị biệt nhau thiết kế nên sự xung chợt diễn ra ở bên trong lòng mỗi quần chúng, thành quả đã vẽ ra một mối tình sạch sẽ đáng trân trọng, một ái tình si vồn vã giữa nhị thế giới với tính cách sống động, hồn nhiên tinh khiết, nhận thức một cách rõ ràng về quyền sống, quyền được sản xuất quả đât, quyền được trải nghiệm háo hức.
Phân tích xung đột trong đoạn trích Tình yêu và thù hận của Sếch – xpiaKhi biết toàn cầu bạn nữ mình yêu ngại ngần trước những xung tự dưng cơ mà dòng tộc đem lại đàn ông Rô-mê-ô đã sẵn sàng đào thải dòng tộc để chạy theo tiếng gọi của mối tình, chỉ cần được nghe tiếng gọi cung phi đàn ông trai chuẩn bị xóa trong trắng hết đầy đủ, sẽ thay tên đổi họ, sẽ xé nát cái tên vì chính phiên bản giữa mình viết ra, hi sinh toàn thể để có được thứ tình cảm linh nghiệm đó.
Về phía Giu-li-ét thì mọi chuyện không hề thuận tiện như thế, cô luôn bị một thứ vỏ bọc nhưng mà dòng họ đem lại nhốt cô, bị bóng đen thù hận của dòng họ giàng buộc tình cảm trong người ta cô, ẩn sâu bên trong người cô vẫn tồn tại một thứ ái tình mãnh liệt, một khao khát tâm thành, máu nóng của tuổi xanh dành cho trái đất mình thương. Qua đó tác giả lên án thâm thúy xã hội phong kiến đã nhốt loài người, tố cáo sự ác độc, vô nhân đạo khi giàng buộc người vào những quan niệm không đáng có, song song bộc lộ khát vọng phóng thích tình cảm tự nhiên để thoát khỏi những giàng buộc đạo đức mà xã hội đó đem lại
Xung đột nhiên kịch còn được thuyết trình giữa tình yêu của đôi nam nàng với mối tình dục thù hận sinh tồn trong nhị dòng tộc từ rất lâu đời, thù hận mà lại nhì dòng họ đem đến đích thực quá lớn bự, cường độ của nó đã dẫn tới cái kết bi lụy đó là cái chết của nhị nhân dân. Tình yêu đẹp như thế, sạch sẽ như thế tại sao lại phải ngừng bằng một cái kết bi hùng như vậy, vì sao không phải là một cuộc đời tươi đẹp có mặt trước mắt, ra đời trong tương lai?
Đơn giản bởi xã hội chính là mồ chôn cho những tình cảm đẹp đó, mối thù hận thân hai dòng họ đã dứt một tình yêu đẹp của thế hệ trẻ. Xung bỗng dưng vở kịch không chỉ dừng lại ở mẫu thuẫn giữa ái tình và nhì dòng tộc mà còn là sự xung thốt nhiên giữa nhị công cụ, giữa nền luân lí trung cổ hà khắc khi mà lại thế giới phải hi sinh cống hiến cho dòng tộc với nhân bản của thời đại phục hưng đề cao quần chúng, để trái đất thoát ra khỏi sự ràng buộc của xã hội, tình cảm tới và chân trọng nó một cách thiên nhiên hàng đầu.
Tác giả đã mang lại cho loài người đọc một tứ tưởng về tình quả đât rất thâm thúy, đó là muốn tình ái thành tựu, vượt qua vừa đủ phải vượt qua được những đớn đau thử thách, vượt qua được sự bất hòa của xã hội. Tình yêu thân nhì người ta trong chiến thắng là bất tử, cái chết đã chứng minh cho mối quan hệ giới tính bền chặt đó, không một điều gì trong xã hội có thể ngăn cản người đến với nhau.
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Bài văn phân tích đoạn trích “Tình yêu và thù hận” số 6
Tình yêu có muôn nghìn trớ trêu, muôn nẻo đau đớn. Tình yêu được xuất bản trên một mối thâm thù còn khổ đau hơn thế. Con mọi người bị đặt vào hoàn cảnh trái ngang, vào thân sự xâu xé của nhị đối cực: yêu kính và thù hận. Sự giằng xé đó có thể được chúng ta bắt gặp trong Rô-mê-ô và Ju-li-ét, vở kịch nức tiếng của nhà văn Anh W. Sếch-xpia. Qua đoạn trích “Tình yêu và thù hận”, tác giả đã khắc hoạ chân thực hành động và trung ương trạng của Rô-mê-ô khi nhận thấy sự trớ trêu của ái tình.
Số phận dường như thích trêu đùa với loài người. Trong đêm định mệnh, sau cuộc gặp gỡ kì duyên ấy, ngọn lửa ái tình đã nhen nhóm trong trái tim cánh mày râu trẻ trai. Vẻ đẹp thơ ngây, sạch sẽ và thánh thiện củạ Ju-li-ét đã làm trái tim của Rô-mê-ô giật động và loàn nhịp. Nhưng cũng chính lúc ấy Rô-mê-ô đã nhận ra quả đât đàn bà chàng yêu gợi cảm lại chính là phái nữ một địch thủ của dòng họ mình. Đặt nhân vật của mình vào một cảnh huống éo le, nhà văn một mặt đẩy trung tâm trạng nhân vật phát triển theo chiều dọc câu chuyện, một mặt cũng là để “mở nút”cho một vấn đề mang tính thời đại. Tình yêu và thù hận khiến chổ chính giữa trạng Rô-mê-ô tình tiết khá tinh tướng qua tiếng nói kịch.Dù biết rằng đó là thiếu nữ của kẻ địch mà lại trái tim của Rô-mê-ô cần thiết ngừng cháy ngọn lửa bi cảm.
Ra khỏi nhà Ca-piu-lét, Rô-mê-ô bỏ mặc bạn bè quay trở lại trèo tường vào vườn để được gặp Ju-li-ét, bất chấp mọi nguy hiểm. Đứng ngắm Ju-li-ét từ dưới vườn, trên khuông cửa sổ, phụ nữ có mặt như ánh sáng Mặt Trời -Phương Đông, đẹp hơn cả chị em thần mặt trăng. Mặt trăng ấy trong một phút đã xua đi ám ảnh của mối thù năm xưa. Còn lại hiện nay trong trọng tâm trí của Rô-mê-ô hiện nay là ánh sáng của tình yêu, là ngọn lửa yêu lôi cuốn đang bùng cháy. “Ôi! Đây là cung phi tôi! Ôi, giá cô bé biết nhỉ”. Giá mà lại con gái hiểu được lòng tôi, kẻ thù của tôi, tôi đã yêu phái nữ. Dưới con mắt của nhân dân đang yêu còn gì đẹp hơn trái đất mình yêu? Còn gì cừ khôi cho bằng sự cừ khôi của người ta ta yêu?
Và giá như quần chúng. # ấy hiểu được cõi lòng ta. Cho tới hiện nay Rô-mê-ô vẫn chưa biết thế giới phụ nữ ấy có yêu mình không nếu biết mình là con của quân địch? Tình yêu đã thôi thúc quý ông trở lại vị trí quân thù đang sống. Và bây giờ trọng điểm trạng của cánh mày râu đang rối bời trước vẻ đẹp kiều diễm ấy của Ju-li-ét Với Rô-mê-ô, Ju-li-ét lúc này là cả bầu trời, là những do tinh tú…. Đôi mắt con trai dõi theo từng cử chỉ, từng điệu bộ của toàn cầu thiếu cô bé đứng bên cửa sổ. Một sự khát khao đang bùng cháy trong Rô-mê-ô, khát khao được đến gần bên người vợ, được nghe chị em nói, được “là chiếc găng tay để được mơn trớn gò má ấy!”. Giá cơ mà không tồn tại sự xa vắng, giá nhưng mà không có hàng rào nào cản trở mối tình ấy, có nhẽ Rô-mê-ô đã có thể đường hoàng đứng trước Ju-Li-ét để giãi bày tình cảm của mình.
Hạnh phúc quá mong manh, mối tình quá mỏng mảnh. Tìm thấy nó đã khó, giữ được lại càng khó hơn. Tâm trạng của Rô-mê-ô tương tự bao đàn ông trai khác lạ trong tình ái. Phải chăng đó là triệu chứng của “tương tứ”? Cái rào cản ngắt quãng ái tình của đại trượng phu với Ju-li-ét lại chính là sự hận thù của nhị dòng họ. Mối thù truyền kiếp ấy đã làm phát sinh một tình ái nồng cháy. Nếu làm một phép so sánh, vai trung phong trạng của Rô-mê-ô qua lời thoại trước nhất của đoạn trích này và trong “Gặp gỡ kì duyên” chúng ta thấy có sự khác rõ nét. Nếu ở “Gặp gỡ kì duyên”, ta bắt gặp một Rô-mê-ô đang ngút ngây bởi tình ái, đang niềm phần khởi, ham khi chiêm ngưỡng Ju-li-ét, khi hôn phái nữ. Thì tới tình ái và thù hận, trọng tâm trạng chất chứa một nỗi âm u, một sự giằng xé của lương trung khu khi ở thân nhì đối cực. Mạch suy nghĩ của Rô-mê-ô diễn ra theo một thứ tự hợp lí và lô-gíc. Trong mạch nghĩ suy ấy, tâm trạng cũng diễn giả sự rối rắm dần. Ban đầu là nói cho mình nghe, một sự độc thoại với chính mình, tình cảm chất chứa bao ưu phiền.
Tiếp đến là sự đắn đo “mình cứ nghe thêm nữa, hay mình biết tin nhỉ?” Và rốt cục là sự bùng phát mãnh liệt của ái tình đã tiếp thêm cho cánh mày râu cường độ, đưa tâm trạng anh hùng thoát khỏi sự ràng buộc của hai đối cực. Có thế thấy trong đoạn trích này, chổ chính giữa trạng Rô-mê-ô dược phát triển qua hai giai đoạn. Nếu giai đoạn đầu, tâm trạng ấy chất chứa nhũng nỗi ai oán, là sự hỗn độn thân mối tình và sự hận thù. Thì ở thời đoạn sau tình yêu đã xóa đi kiêm toàn, tăng đính thêm sức mạnh, tiếp gắn thêm sinh lực cho việc đập tan đi sự cách trở ấy. Cùng với trung tâm trạng ấy là hành động của hero. Không trốn né trong bóng tối, trong cái bóng đen của hận thù, cánh mày râu bước ra ngoài ánh sáng trước mặt quả đât ưa chuộng, bước đến chỗ có ánh sáng của tình yêu tỏa rạng. Ở vị trí đây có Ju-li-ét đang chờ nam nhi.
Một đặc điểm của văn phiên bản kịch là không chỉ rõ hành động hay chổ chính giữa trạng của anh hùng. Hành động và trọng điểm trạng hero chỉ được thể hiện qua tiếng nói, qua lời hội thoại. Chính bởi vì thế, qua ngôn ngữ của Rô-mê-ô, người ta đọc có thể mường tượng ra một Rô-mê-ô sống thực, cảm chiếm được sự chuyển đổi trong tâm trạng và chủ động của người hùng.Có thể nói ở đây có sự vận động từ bóng tối tới ánh sáng, từ hận thù tới yêu thương. Sự vận động biến đổi ấy là từ đâu nêu không phải từ tình ái? Chính tình ái của Ju-li-ét đã tiếp cho Rô-mê-ô quyện lực để bước ra đối mặt với thách thức ấy. Châp nhận khái quát bởi mối tình. Tình yêu là cao tay nhất, thiêng liêng nhất. Tình yêu có cường độ vĩ đại nhất giúp người ta vượt qua mọi thử thách. Dị thường khi nó có được sự nỗ lực của cả hai thế giới.
Khi đã có ái tình của Ju-li-ét, khi biết rõ trái tim thanh nữ, Rô-mê-ô quyết định tiến công đổi tên họ của mình để lấy tình yêu, để có được tình ái. “Chỉ cần em gọi tôi là nhân tình, tôi sẽ thay đổi họ; từ nay, tôi sẽ không bao giờ còn là Rô-mê-ô nữa”. Chàng chán ghét cái tên, họ ấy. Không phải vì tên, họ ấy khinh ghét hay xấu xa mà lại tại “nó là địch thủ của em”. Hay nói cách dị thường đi, Rô-mê-ô muốn chối bỏ mối hận thân hai dòng họ Môn-ta- ghiu và Ca-piu-lét, vì ló là địch thủ của tình yêu. Thù hận, có gì nổi trội hơn là mang lại khổ cực cho thế giới?
Thù hận, có gì dị kì hơn là chia cắt tình thương mến đồng hình dạng của nhân loại? Đó chính là “những xiềng xích phong kiến và chủ nghĩa khổ hạnh của Giáo hội thời trung cổ”. Chúng giam cầm hòa bình của người được hưởng quyền sống chân chính và vui mắt tự nhiên ngay ở thiên hạ này, đó chính là quan điểm của nhà soạn kịch to con w. Sếch-xpia. Và Rô-mê-ô là một tỉ dụ điển hình Đấu tranh với phiên bản thân, đối mặt với thách thức để đến với ái tình vượt qua những bức tường ngắt quãng và địa điểm tử địa nhờ đôi mắt nhẹ nhàng nhàng của ái tình. “Mấy bức tường đá ngăn sao được tình yêu, cái gì tình ái có thể làm là tình ái dám làm”.
Sự vượt tường ấy cũng là sự vượt qua hận thù để tới với tình yêu. Khao khát nâng niu cháy bỏng ấy là khao khát thường tình của thế giới. Thế nhưng mà với những quần chúng. # thù thì đó quả là tình yêu can trương. Tình yêu có thể làm tốt nhất, có thể xoa dịu trọn vẹn những đau thương, xóa bỏ thù hận. Cũng chính tình ái làm nên tâm trạng Rô-mê-ô chuyển đổi tinh tướng. Tình yêu đã dẫn đường cho cánh mày râu tìm thấy đoạn đường con trai cần phải đi. Chống lại những gông xiềng xiềng xích để được hòa bình và mừng rơn.
Qua mười sáu lời thoại, chổ chính giữa trạng Rô-mê-ô cốt truyện khá phức hợp và có sự vận động biến đổi sâu sắc. Điều đó cũng cho thấy sự thành quả của Sếch-xpia trong nghệ thuật xây dựng kịch, thuần khiết kiến tạo ngôn ngữ kịch. Rô- mê-ô và tình ái của phái mạnh với Ju-li-ét trở thành bất tử, sự bất tử trong mối tình. Một tình yêu thuần khiết bất chấp hận thù, xóa bỏ hận thù và khát khao hòa bình, vui miệng.
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Bài văn phân tách đoạn trích “Tình yêu và thù hận” số 7
Đoạn trích Tình yêu và thù hận kể về cảnh Rô-mê-ô sau cuộc gặp gỡ với Giu-li-ét ở dạ hội cải dạng tại nhà bạn nữ, chờ lúc đêm khuya đã quay quay về, leo lên bức tường đối diện với phòng ngủ của Giu-li-ét để tỏ bày lòng mình. Sếch-xpia đã biểu diễn nói chung vai trung phong trạng của nhị người ta trẻ tuổi vừa bị trúng mũi tên của thần Ái tình Cupid. Mối thù truyền kiếp của nhị dòng họ bắt buộc ngăn cản ái tình mãnh liệt ấy. Thái độ của tác giả là ưng ý và ngợi ca, vì: Ca ngợi tình ái chân chính của nhân loại cũng chính là khẳng định địa cầu.
Rô-mê-ô choáng váng trước vẻ đẹp thánh thiện của Giu-li-ét nên trái tim đã thôi thúc Đấng mày râu quay trở lại khu vườn nhà cô bé, dẫu biết rằng điều đó là khôn xiết nguy hiểm. Đúng lúc ấy, Giu-li-ét cũng tới bên cửa sổ trông xuống khu vườn để bày tỏ lòng mình. Chúng ta hãy nghe Rô-mê-ô phân trần cảm xúc thật lãng mạn mà cũng thật tình thật khi nhìn thấy Giu-li-ét. Trước đôi mắt của kẻ ham tình thì vẻ đẹp của đàn bà mình yêu là hoàn hảo hơn tất thảy: … Ánh sáng nào vừa loé trên cửa sổ kia? Đấy là phương đông, và phái nữ Giu-li-ét là mặt trời! – Vừng dương đẹp đẽ ơi, hãy hiện lên đi…
Đấy là thế giới ta quý. Ôi! Đấy là người ta yêu! Ôi, giá thiếu nữ biết nhỉ!… Vẻ rực rỡ của đôi gò má phụ nữ sẽ khiến cho các vì tinh tú ấy phải mắc cỡ, như ánh sáng ban ngày giúp cho đèn nến phải thẹn thùng; còn vợ mắt thiếu phụ trên bầu trời sẽ rọi khắp không gian một làn ánh sáng tưng bừng tới nỗi chim chóc sẽ thông tin hót vang… Hỡi đàn bà tiên lộng lẫy, hãy nói nữa đi! Bởi đêm nay, con gái toả ánh hào quang quẻ, trên đầu ta, như một sứ giả nhà trời có cánh, đang cưỡi những áng mây thanh nhàn lướt nhẹ nhõm trên không trung, khiến những kẻ trần ai phải cố ngước đôi mắt… lên nhưng chiêm ngưỡng.Khi Giu-li-ét nghĩ đến Rô-mê-ô thì điều đầu tiên khiến cô gái ngần ngừ là mối thù lâu đời giữa nhì dòng họ, nhưng mối thù ấy chẳng thể ngăn cản thiếu phụ đến với tình yôu, với người yêu: Ôi, Rô-mê-ô, chàng Rô-mê-ô! Sao cánh mày râu lại là Rô-mê-ô nhỉ?
Chàng hãy khước từ phụ thân chàng và từ khước dòng tộc của quý ông đi; hoặc nếu không thì quý ông hãy thề là yêu em đi, và em sẽ không còn là con cháu nhà Ca-piu-lét nữa.Tình yêu sét tiến công khiến hai quần chúng sống trong trung tâm trạng bay bổng, si mê, ngoài ra ở họ vẫn còn sự dẫn dắt sáng suốt của lí trí. Những cốt truyện trong trọng điểm trạng Giu-li-ét chứng tỏ Sếch-xpia đã biểu hiện khái quát quần chúng thiếu người vợ đang yêu: Chỉ có tên họ nam nhi là cừu địch của em thôi. Nếu chẳng phải là quần chúng họ Môn-ta-ghiu thì đại trượng phu cũng vẫn cứ là phái mạnh. Môn-ta-ghiu là cái gì nhỉ?
Đó đâu phải là bàn tay, hay bàn chân, hay cánh tay, hay mặt mũi, hay một phòng ban nào đấy của thân thể quả đât. Chàng ơi! Hãy mang tên họ nào khác biệt đi! Cái tên đó có nghĩa gì đâu? Bông hồng kia, giá chúng ta gọi bằng một tên khác thì hương thơm cũng vẫn ngọt ngào. Vậy nếu đàn ông Rô-mê-ô chẳng mang tên Rô-mê-ô nữa, thì mười phân nam nhi vẫn vẹn mười… Rô-mê-ô con trai ơi, con trai hãy bỏ sót tên họ của quý ông đi; nam nhi hãy đem tên họ ấy, nó đâu phải xương làm thịt của nam nhi, đổi lấy em đây! Trong câu nói ấy của Giu-li-ét chứa đựng quyết chổ chính giữa vượt qua mọi trở lực ghê gớm và mong muốn Rô-mê-ô hãy quên đi mối hận thù truyền kiếp thân hai dòng tộc để tới với mình.
Sếch-xpia ca ngợi mối tình bởi tình ái là thứ tình cảm tốt đẹp và thần kì nhất của quần chúng. #. Có một nhà thơ đã nói: Không có mối tình hoa không nở. Nhà thơ lãng mạn Xuân Diệu duyên dáng thốt lên: Từ lúc yêu nhau hoa nở mãi, Trong vườn thơm ngạt ngào của hồn tôi. Nhà thơ cách mệnh Tố Hữu cũng sáng tác những vần thơ bất hủ ca ngợi mối tình: Có gì đẹp trên đời bên cạnh đó, Người yêu loài người sống để yêu nhau. Tình yêu đã, đang và sẽ mãi mãi tồn tại do nó là nền tảng của cuộc sống nhân loại trên Trái Đất này
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Bài văn phân tích đoạn trích “Tình yêu và thù hận” số 8
Uy-li-am Sếch-xpia là tác gia tiêu biểu của nền văn học châu Âu thời kì Phục hưng. Sống vào thời đoạn quá độ từ luật phong kiến sang phương pháp tư bạn dạng, ông đã nhanh nhạy nắm bắt được hơi thở, mạch đập của thời đại và đâm vào tòa tháp của mình. Và sự nghiệp sáng tác của Sếch-xpia là sự phản chiếu và phê phán cả nhị chính sách đó. Chế độ tư bản với những tình dục “trả tiền ngay” rất tăm tối của cai trị bốn sản buổi thuở đầu đã được tuyệt hảo và tiêu biểu hoá ở hình tượng tên thương nhân Do Thái Sai-lốc trong vở Người thương lái thành Vơ-ni-dơ và ở căn số vua Lia trong vở Vua Lia.
Sự phi chính nghĩa, lỗi thời, hủ lậu đầy thành kiến của quy định phong kiến già nua đã được phơi bày trong một loạt bi kịch của ông như Mác-bét, Rô-mê-ô và Giu-li-ét, Ô-ten-lô… Sếch-xpia luôn ban bố ngợi ca loài người và đòi quyền sống, quyền chủ quyền thực sự cho họ. Nhân vật của Sếch-xpia là những quần chúng. # mới của thời đại thế hệ, những con người luôn sống bằng chính trái tim của mình, dám cất báo cáo nói biểu diễn khát vọng của mình, vượt lên mọi thù hận, mọi buộc ràng xã hội.
Rô-mê-ô và Giu-li-ét là đại diện tiêu biểu cho những trái đất ấy. Trong suốt thời trung thế kỉ, cả châu Âu chìm trong đêm tối của hiện tượng phong kiến và nhà thờ. Mọi quyền hòa bình của quần chúng chừng như đều bị tước bỏ. Tư tưởng nhân bản cao đẹp của nền văn hoá Hi Lạp – La Mã cổ truyền đều bị chìm trong đống đổ nát của những công trình văn hoá từng phát triển rực rỡ. Thời cổ đại nhân loại ta ca ngợi nhân dân bao nhiêu thì thời trung cổ người bị vùi dập bấy nhiêu. Phong trào văn nghệ Phục hưng hình thành đã đánh thức khát vọng của địa cầu, đề cao người và khẳng định toàn cầu là cao tay nhất. Hoàng tử Hăm-lét, anh hùng chính của vở kịch Hăm-lét, đứa con ý thức yêu thích của Sếch-xpia, đã có một phát ngôn bất tử về nhân dân : “Kì diệu thay là trái đất, về vẻ đẹp nó sánh ngang với thần thánh, trí não sánh ngang với thượng đế. Con người thật là diệu kì, là trung vai trung phong của vũ trụ, là loại mẫu của muôn loài.
Con nhân loại phải được hợp ý mọi nhu cầu vốn có như ăn, uống, ngủ, nghỉ, các sinh hoạt nhân gian, sự hiểu biết và sự phát triển về mặt trí não”. Phát ngôn này là sự kế tục tinh thần của Prô-ta- gô-rốt, nhà triết học cổ truyền Hi Lạp : “Con quần chúng là thước đo của vạn vật”, là bốn tưởng thường ngày của chủ nghĩa nhân văn trong văn học Hi Lạp cổ điển và cũng chính là tứ tưởng cốt yếu của văn học thời Phục hưng. Là tác giả tiêu biểu của văn học Phục hưng Anh, Sếch- xpia đã miêu tả sâu sắc tứ tưởng này trong vật phẩm của mình. Sự to tướng của Sếch-xpia là vật phẩm của sự hợp thể thân chức năng, sự hiếu học, sự phát triển rực rỡ của thời đại Phục hưng và hiện thực xã hội Anh cuối thế kỉ XVI, đầu thế kỉ XVII. Với sự thắng thế của ý thức nhân văn chủ nghĩa, văn học Phục hưng thời đoạn đầu luôn háo hức và tràn ngập ý thức tự tin.
Nhưng đến thời đoạn sau, tinh thần lạc quan ấy giảm dần vì sự hiện hữu lãnh đạm của những quan hệ tình dục bốn sản thế hệ. Những mâu thuẫn giữa lí tưởng cao đẹp và hiện thực xã hội đầy cầu kỳ của buổi giao thời thân phong kiến và tư bản đã để lại dấu ấn rất đậm nét trong sáng tác của các nhà văn Phục hưng. Và Sếch-xpia là đại diện tiêu biểu số 1. Sự nghiệp sáng thiết kế nghệ thuật của Sếch-xpia Có thể chia làm nhị giai đoạn. Giai đoạn đầu, trước năm 1600, sáng tác của nhà văn mang âm hưởng đầy niềm tin, đây là thời kì của những vở hài kịch.
Giai đoạn sau, từ năm 1600 trở đi, chủ yếu ông sáng tác thảm kịch. Vở thảm kịch Rô-mê-ô và Giu-li-ét viết khoảng 1594 tới 1595, có thể coi là gạch nối tứ tưởng nhị thời đoạn sáng tác của ông. Tuy là một bi kịch tình yêu, hoàn tất là cái chết của nhị anh hùng chính mà vở thảm kịch này không để lại âm hưởng thê thảm như những vở thảm kịch ở thời đoạn sau. Rô-mê-ô và Giu-li-ét là một vở kịch thơ xen lẫn văn xuôi do vậy dù đã bệnh sang văn xuôi nhưng tiếng nói hội thoại của hero vẫn là những câu văn vần rất uyển chuyển, ăn nhịp kiến thiết cho đoạn trích một sức say đắm đặc trưng. Dù là độc thoại hay đối thoại, lời thoại của các nhân vật đều rất giàu chất thơ, có vần điệu.
Sau cuộc gặp gỡ ở buổi dạ hội, cả Rô-mê-ô và Giu-li-ét đều đã mang trong mình mối sầu tương tư. Và như nhân dân ta vẫn nói, khi nhị ánh mắt đã gặp nhau, trái tim đã đồng điệu là lúc nhị trung tâm hồn đã thuộc về nhau. Rô-mê-ô và Giu-li-ét là hai người như thế. Vì vậy, họ mới có chung một cảm xúc và không hò hứa hẹn, họ đã cùng nhau than vãn dưới trăng trong vườn nhà Ca-piu-lét. Những lời độc thoại và hội thoại của đôi trai gái trong Tình yêu và thù hận đã thuyết trình họ là những địa cầu biết mến yêu bằng chính trái tim mình. Đoạn trích gồm nhị phần. Phần 1 gồm sáu lời thoại đầu. Hai trái đất tự nói thể hiện cảm xúc của mình. Chính cảnh huống kịch này đã làm tăng thuộc tính chân thành, thú vị của tình ái Rô-mê-ô và Giu-li-ét. Phần 2 là cuộc đối thoại trực tiếp thân nhì thế giới.
Đoạn trích tụ hợp miêu tả nội dung chính là : mối thù truyền kiếp thân nhị dòng họ không cản trở được hai trái tim yêu mà lại chỉ làm họ say mê hơn cơ mà thôi. Họ sẵn sàng vượt lên kiêm toàn để được yêu nhau. Rô-mê-ô và Giu-li-ét đại diện cho những quần chúng khao khát hòa bình và mừng rơn. Họ sẵn sàng vượt lên hàng rào ấy để giành lấy tự do, vui miệng cho riêng mình. Họ sẵn sàng từ bỏ tên họ của mình để được đến bên nhau. Hành động này không phải là sự vô tình của kẻ dám từ chối những cặp mình, cơ mà đó là sự chối từ những thành kiến bất hợp lí. Giu-li- ét nói : “nam nhi hãy thề là nam giới yêu em đi, và em sẽ không còn là con cháu nhà Ca-piu-lét nữa”. Và Rô-mê-ô : “Chỉ cần em gọi tôi là người nhà, tôi sẽ thay tên đổi họ ; từ nay, tôi sẽ không bao giờ còn là Rô-mê-ô nữa”.
Những lời tha thiết ấy của nhị dân chúng đã chứng tỏ mối tình si mê của họ. Đó là một ái tình vệ sinh và mãnh liệt. Dưới ánh mắt của đàn ông Rô-mê-ô đang yêu, Giu-li-ét đẹp và dịu hiền hơn toàn thể. Với nam nhi, “bạn nữ Giu- li-ét là mặt trời”. Rô-mê-ô đã sài một loạt hình ảnh so sánh đại quát nhất để thể hiện vẻ đẹp của nữ giới Giu-li-ét : “chẳng qua nhì ngôi sao đẹp số 1 bầu trời có việc phải đi vắng, đã thiết tha nhờ mắt cô bé nhấp nhánh, chờ đến lúc sao về”. Lời thoại dài số 1 của Rô-mê-ô trong đoạn trích là lời tụng ca vẻ đẹp của phụ nữ Giu-li-ét còn lời thoại dài số 1 của Giu-li- ét là đoạn bộc lộ ái tình nóng bỏng của con gái với Rô-mê-ô. Chính lời thoại này của Giu-li- ét trình diễn bốn tưởng then chốt của đoạn trích : “Mông-ta-ghiu là cái gì nhỉ ? […] thì mười phân hàng vẫn cứ vẹn mười.”
Rô-mê-ô vượt tường rào vào vườn nhà Giu-li-ét chỉ do nhớ phụ nữ bắt buộc ngủ được. Tình yêu đã làm nam nhi quên đi rằng bởi mối thù truyền kiếp đại trượng phu có thể bị giết mổ chết nếu bị hoàng hậu Ca-piu-lét bắt. Khát vọng yêu là khát vọng của muôn thuở và của mọi dân tộc. Trong văn học Việt Nam, thanh nữ Kiều dám vượt qua hàng rào lễ giáo phong kiến “Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình” để đến vườn Lãm Thuý thề nguyền cùng Đấng mày râu Kim trong một đêm trăng : Vầng trăng vằng vặc giữa trời, Đinh ninh hai mồm một lời song song.Thì bên sườn cửa sổ chứa chan ánh trăng trong vườn nhà Ca-piu-lét, Rô-mê-ô và Giu-li-ét vượt qua mối cừu địch của nhị dòng tộc cũng thề nguyền cùng nhau với những lời tha thiết. Cuộc thề hứa dưới trăng của Rô-mê-ô và Giu-li-ét đã khiêu gợi khát vọng sống củacả thời đại.
Tình yêu của họ đã chứng tỏ những thần thế và xiềng xích của những hủ tục, thành kiến của mối quan hệ nam nữ phong kiến đã dần mất tuấn kiệt. Nó đang bị phá bỏ hoặc tự tan rã. Thời đại trung cổ đã qua đi, quần chúng đã được phóng thích khỏi những lệ luật khắc nghiệt vô lí. Lời của Rô-mê-ô đã trực tiếp biểu lộ điều này, “Tôi vượt được tường này là nhờ đôi cánh nhẹ nhõm nhàng của tình ái ; mấy bức tường đá ngăn sao được tình yêu ; mà cái gì tình ái có thể làm là tình ái dám làm…”. Cuộc đối thoại giữa Rô-mê-ô và Giu-li-ét trong đoạn trích đã khẳng định rằng mối tình có thể vượt lên tổng thể. Và chỉ tình ái có quyền lên tiếng trong trái tim nhì quần chúng đang yêu.
Tuy đoạn trích không có những xung thốt nhiên đầy kịch tính như các hồi kịch kì cục mà tính kịch vẫn được thuyết trình rất rõ qua tiếng nói và chủ động kịch, đó là tình cảnh đầy bất trắc, là cảm xúc chiều chuộng mãnh liệt, là những lừng chừng trước sự trái ngang của tình yêu. Với một giọng văn thấm đẫm chất thơ và hứng thú lãng mạn, Sếch-xpia đã xuất bản nên một đêm trăng thề hứa thật trữ tình. Tình yêu tinh khiết trong trắng của đôi trẻ đặt bên cạnh mối thù hận truyền kiếp làm cho mối thù ấy trở thành vô nghĩa và mang đầy tính chất phản nhân bản. Ngôn ngữ kịch của Sếch-xpia vốn rất giàu nhạc tính và hình ảnh với những lối ví von so sánh rất đắm đuối, hàng đầu là những câu Rô-mê-ô biểu hiện vẻ đẹp của người vợ Giu-li-ét.
Mặc dù đã dịch sang văn xuôi mà đó vẫn là những câu văn uyển chuyển, đắm đuối và thấm đẫm chất thơ. Ngôn ngữ hội thoại giữa Rô-mê-ô và Giu-li-ét tràn trề ái tình thương, nó diễn tả sự đồng điệu vai trung phong hồn của nhì địa cầu trẻ tuổi. Chỉ một lần gặp nhau với thời gian ngắn ngủi nhưng dường như họ đã hiểu hết những điều nhân loại kia muốn nói. Tình yêu của Rô-mê-ô và Giu-li-ét tuy gặp nhiều trở ngại nhưng mà họ đều đã gan góc vượt qua, và đến cái chết cũng không li biệt được họ. Cái chết của nhì thế giới đã thức tỉnh và hoá giải được mối thù của nhị dòng họ.
Tình yêu của họ đã làm được điều mà chính quyền lực của Vương chủ thành Vê-rô-na cũng không làm được. Mối tình Rô-mê-ô và Giu-li-ét đã biến thành một huyền thoại tình yêu thật đẹp, là tình yêu lí tưởng cho toàn nhân hình trạng. Cho tới nay quần chúng. # vẫn khao khát một tình yêu như thế.
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Bài văn phân tích đoạn trích “Tình yêu và thù hận” số 9
Nhắc tới U.Sếch-Xpia thì phải nhắc tới vở kịch kinh điển và trở nên huyền thoại của dân chúng là Rô-mê-ô và Giu-li-ét, là cống phẩm văn học và điện ảnh đem đến lừng danh và sự nghiệp làm nghệ thuật của ông. Nội dung chính xoay quanh ái tình ngang trái của Rô-mê-ô và Giu-li-ét, dù bị ngăn cấm, căn trở nhưng họ vẫn quyết tâm đến với nhau bằng mối tình tâm thành và mãnh liệt, chỉ có cái chết mới giải quyết được mâu thuẫn của họ hàng nhà hai bên, chấm dứt bằng cái chết chưa phải là hết, nhưng mà đó là mở ra một ngày mai tươi sáng hơn và khẳng định rằng chủ nghĩa nhân bản sẽ nhà cửa cục bộ mọi thứ.
Giu li ét là cô bé đẹp, hình thành như một thanh nữ tiên, tao nhã, quý phái qua lời độc thoại của Rô mê ô, cánh mày râu tự trách sao mình lại mang dòng tộc và danh tiếng như thế, đó là tình địch, là oan gia nhưng qua bao đời nay vẫn chưa ai có thể hòa giải được. Từ lời thoại đầu đến thứ bảy là những câu độc thoại của nhị thế giới, đang giãi bày bạn dạng thân và ước mơ, tơ tưởng thấy nhau, tác giả đã sử dụng những câu thoại hay, với ý nghĩ đó độc đáo, lời vay được trau chuốt từng chữ một, hình ảnh so sánh bất ngờ, mới lạ tới không ngờ, giúp cho hero hiện lên vừa đẹp, vừa thơ mộng, diễm lệ và khôn cùng nên thơ tương đương trong truyện cổ tích vậy.
Qua đó tác giả muốn khắc họa hình ảnh hero và tình yêu mãnh liệt, tài sản vật chất hay địa vị xã hội chẳng là gì hết mà thứ sinh tồn lại là mối tình nhân tình đang độ chín muồi, có thể bùng cháy bất kỳ lúc nào, phái mạnh Rô mê ô sẵn sàng bất chấp nguy hiểm, đau khổ để leo tường chỉ với mong muốn được nhìn thấy Giu li ét một lần sau bao nhiêu ngày thầm thương trộm nhớ, tư tưởng của quý ông chỉ ra đời mỗi hình ảnh của người vợ, cứ lẩn quất vòng vo và bắt đầu óc đại trượng phu không lúc nào thôi nghĩ đến thiếu phụ.
Tình yêu đẹp của họ được nảy nở một cách kỳ diệu và nên thơ, mà lại chớm nở trong cảnh ngộ oan nghiệt và ngang trái như này, nhì đứa ở nhì dòng tộc khác lạ nhau, có mối oan nghiệt thù hận truyền kiếp đã lâu mà vẫn chưa thể nào hóa giải nổi, tình yêu đang trong giai đoạn đẹp số 1 của mối tình. Dù yêu nhau như thế nhưng Giu li ét lúc nào cũng lo sợ và quan ngại về môi tình này, liệu rồi họ có tới được với nhau hay không? Tình yêu của họ sẽ đi về đâu? Chàng có gặp nguy hiểm gì để nhị người ta được ở bên nhau hay không? Nhưng chung cục vượt lên hoàn mỹ họ chuẩn bị hy sinh cả tính mạng của mình để bảo vệ tình yêu và dứt nó khi đang độ đẹp hàng đầu, giải cứu lấy ái tình này, đồng thời cũng hóa giải mối thù hận truyền kiếp của hai dòng họ.
Ở những lời thoại tiếp the từ số 8 tới 16 là lời giãi bày những tình cảm, tấm thực lòng của mình dành cho nhau, toại ý nỗi nhớ nhung hằng đêm khi được gặp nhau chỉ trong chốc lát qua cánh cửa sổ của phụ nữ nhưng mà từng ấy đã đủ để họ chứng minh tình ái dành cho nhau. Dù thù hận của cả nhì gia tộc quá Khủng để họ có thể vượt qua nổi cơ mà chỉ cần thiếu phụ nhìn Đấng mày râu một cách âu yếm, từng đó thôi cũng đủ để nam giới sẵn sàng quên đi mọi rào cản, ngay cả tính mạng của mình để được ở nhau.
Họ chứng minh cho kiêm toàn người thấy rằng, tình ái là bất diệt, là vĩnh cửu, không có bất kỳ rào cản nào có thể đứt quãng nổi nhì trái tim đang yêu, đang hòa chung một nhịp, quyện vào nhau một cách say đắm. “Yêu là chết trong lòng một ít” như nhà thơ Xuân Diệu từng khẳng định vậy, cơ mà trong thứ mối tình nhưng mà Rô mê ô và Giu li ét dành cho nhau lại Khủng bên cạnh đó, họ dám hy sinh tính mạng của mình để được ở bên nhau, bảo vệ thứ tình ái linh nghiệm đó, câu chuyện mối tình cơ mà thấm đẫm nước mắt được nhà viết kịch Sếch -Xpia biên soạn thảo khiến quần chúng đọc, trái đất xem như nhập trung tâm vào nhân vật. Sau khi họ chết, mối tình của họ được muôn thuở ghi nhơ, bắt buộc là họ đã được ở bên nhau mãi mãi, không ai tách rời, không ai nghiêm cấm, “chỉ có đôi ta không bao giờ ly biệt”.
Cả vở kịch có tên là “ái tình và thù hận” là câu chuyện tình yêu cảm động của nhì địa cầu con của nhị gia tộc dị kì nhau, họ bị ngăn cấm, do thứ gọi là hận thù truyền kiếp mà lại nhì gia tộc này xây đắp ra từ đời này sang đời đặc biệt, mà lại rồi mối tình của hai trái đất này, họ đã giải quyết hoàn tất mối thù “không đội trời phổ quát” của cả nhị bên bằng tình ái đẹp, mối tình lứa đôi đang nảy nở và phát triển không xong xuôi. Cơ mà trong đoạn trích Rô mê ô và Giu li ét thì ở đó không có sự giằng xe về hai tría tim đang phổ biến nhịp đập, có sự đối đầu mâu thuẫn nào nhưng mà trái lại đó là chuyện tình đẹp như tranh được hai dân chúng vẽ và thêu dệt nên bằng những câu ca, văn vẻ, thơ mông dành cho nhau.
Có thể bạn quan tâm: » 20 Câu thơ hay tặng người yêu nhân ngày lễ tình nhân
Tình yêu luôn là đề tài muôn thuở trong văn học, cơ mà Sếch -Xpia lại chọn cho mình giao diện viết Đặc biệt nhân dân, ông vượt ra khỏi ranh giới của văn chương thời kỳ cận đại để bứt phá vươn lên. Qua đoạn trích trình diễn được tình yêu vô bờ bến, mãnh liệt, không gì ngăn cản được khiến chúng ta vừa thấy khâm phục vừa thấy thương.
Có thể bạn quan tâm: » 101+ những câu nói hay về tình yêu chỉ cần nghe một lần đã chạm đến trái tim
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Đăng bởi vì: Cường Lê
Từ khoá: 9 Bài văn phân tích đoạn trích “Tình yêu và thù hận” của Uy-li-am Sếch-xpia
Xem gắn thêm tại Youtube 5 Đề Tự Luận về Tình Yêu Và Thù Hận (Trích Romeo & Juliet) của Uy-li-am Sếch-xpia | Văn Mẫu 11
🔰 🔰 🔰 Link tải tài liệu MIỄN PHÍ phía bên dưới.
-00:25 Đề bài 1: Phân tích đoạn trích Tình yêu và thù hận nằm trong tác phẩm Romeo và Juliet của Uy-li-am Sếch-xpia.
-11:20 Đề bài 2: Phân tích diễn biến tâm trạng của Rô-mê-ô và Giu-li-ét trong đoạn trích “Tình yêu và thù hận” của Uy-li-am Sếch-xpia
—Soạn bài Tình yêu và thù hận của William Shakespeare (Chi tiết – ngắn gọn – nâng cao – luyện tập).
—Nội dung văn bản – Khái quát tác giả, tác phẩm – Đọc hiểu văn bản – Sơ đồ tư duy.
—Tóm tắt Tình yêu và thù hận của William Shakespeare (7 mẫu).
—Dàn ý phân tích Tình yêu và thù hận của William Shakespeare (chi tiết – ngắn gọn).
—Đề kiểm tra trắc nghiệm 15 phút Tình yêu và thù hận (2 Đề – 26 câu).
—Đề bài 1: Phân tích đoạn trích Tình yêu và thù hận nằm trong tác phẩm Romeo và Juliet của William Shakespeare (10 mẫu).
—Đề bài 2: Phân tích diễn biến tâm trạng của Rô-mê-ô và Giu-li-ét trong đoạn trích “Tình yêu và thù hận” của Uy-li-am Sếch-xpia (4 mẫu).
—Đề bài 3: Phân tích diễn biến tâm trạng Romeo trong Tình yêu và thù hận (2 mẫu).
—Đề bài 4: Phân tích xung đột trong đoạn trích Tình yêu và thù hận của Sếch-xpia.
—Đề bài 5: Qua đoạn trích “Tình yêu và thù hận” hãy chứng minh: Ca ngợi tình yêu chân chính của con người cũng chính là khẳng định con người (3 mẫu).
————————————————-
♥♥♥ Hãy nghe và cảm nhận ♥♥♥
——————-♥♥♥————————
Nhấn Đăng Ký và nhận thông báo
👉
Liên hệ Facebook để nhận file văn bản và audio
👉
Liên hệ Instagram:
👉
Liên hệ TikTok:
👉
—————————————————
✔️ Bản quyền thuộc về Văn Hay TV ©️
⛔️ Copyright by Văn Hay TV ©️
⛔️ Do not Reup
#TinhYeuVaThuhan #Romeo #Juliet #WilliamShakespeare #VănHayTV #VanHayTV #NgữVăn11 #NguVan11 #VănMẫu #VanMau #Hoconline #Hocvanonline #vanhoc #hocvan
Bạn đang xem: » 9 Bài văn phân tích đoạn trích “Tình yêu và thù hận” của Uy-li-am Sếch-xpia