2 Tháng Mười Hai, 2022

Động vật sinh tồn như thế nào trong thế giới không có bác sĩ?

Rate this post



Ngoài ra sự cấu kết thân gương mặt đậm chất biểu cảm của đồng chí chó mèo và chiếc vòng hình nón úp ngược đeo quanh co cổ vẫn chưa đủ hí hước, quần chúng. # ta còn đặt cho quy định thú y này những cái tên khôn xiết hóm hỉnh và bi lụy cười. Từ tả thực như “chụp đèn thú cưng” (pet lamp-shade), “đĩa ra-đa thú cưng” (pet radar dish), cho đến châm biếm ẩn dụ như “cổ áo Elizabeth” (Elizabethan collar).

Ngoài lề một tẹo, tên gọi “quý tộc” này bắt nguồn từ hình ảnh chiếc cổ áo xếp nếp bự tròn màu trắng thường thấy trong cách ăn vận của các bậc vương giả phương Tây thời Trung Cổ (ruff). Tác dụng duy nhất của nó là giữ cho các bộ lễ phục sang trọng không bị ố bẩn tại nơi viền cổ áo, nhưng mà sẽ khiến nhân dân mặc bị… mỏi cổ bởi lớp vải này khá ôm và cứng. Sự bất tiện và thiếu thực tiễn khiến món phục sức này trở nên biểu tượng của sự phú quý và địa vị, một ví dụ cho thành ngữ “giàu có sinh lễ nghĩa”.

Có thể bạn quan tâm: » Tài chính cá nhân – nội dung tầm phào ở Việt Nam

Động vật sinh tồn như thế nào trong thế giới không có bác sĩ
Động vật tồn tại như thế nào trong loài người không có bác sĩ. (Ảnh: Monster Box).

Quay lại với lý lẽ thú y “bi thảm cười” phía trên, nó còn có một tên gọi khác nhau là “vòng cổ chống liếm cho thú cưng”, và thiên tài đích thực của nó chẳng hề “bi hùng cười” chút nào.

Những toàn cầu nuôi chó mèo có thể quan sát thấy chúng thường xuyên có hành vi liếm lông và dị thường là liếm vết thương. Theo tò mò, ngoài kĩ năng đào thải các chất bẩn ngoằn ngoèo mồm vết thương, trong nước miếng có chứa các chất giúp thúc đẩy sự đông máu hoặc có tính kháng khuẩn, nhờ đó sẽ đẩy mạnh tốc độ bình phục vết thương. Tuy nhiên, liếm quá nhiều lại có thể khiến vết thương bị truyền nhiễm trùng vì các hình dáng vi khuẩn có trong nước bọt và xây cất tình trạng viêm rái cá hoặc u hạt (granuloma) (điều này cũng đúng với cả người ta, và cảnh nguy hiểm nhiễm trùng là khác lạ to đối với những toàn cầu bị suy giảm miễn căn bệnh. Từng có trường hợp một mọi người bận bịu tiểu đường phải cắt bỏ ngón tay cái bị truyền nhiễm trùng chỉ do liếm một vết thương nhỏ xíu trên đó.

Với cấu thành lập dạng phễu che cong vắt đầu, chiếc vòng sẽ ngăn không cho chó mèo chạm mõm vào phần giữa sau, từ đó thải hồi cảnh nguy hiểm liếm quá mức khiến vết thương biến thành trầm trọng hơn hoặc làm lan rộng tình trạng lây nhiễm trùng và nấm da. Chiếc vòng này còn giúp thú nuôi không nuốt phải các kiểu thuốc bôi hay phòng ngừa việc chúng tự khiến mình bị thương ở mắt do sài chân cào gãi tai và đầu.

Lũ thú cưng thật may mắn khi được quả đât coi ngó tới tận… lưỡi. Nhưng còn những động vật hoang dại thì sao? Biết rằng liếm vết thương là hành vi bản năng không thể và tồn tại rộng rãi ở nhiều loài chứ không chỉ riêng chó mèo nhà, nhưng bấy nhiêu đó chắc chắn không đủ để sống sót trong môi trường thiên nhiên cực kì khắc nghiệt.

Trừ một số ít trường hợp kì cục ngoại lệ, ví dụ sứa Turritopsis nutricula có thể đảo ngược vòng đời và sinh trưởng vô hạn, hoặc giun dẹp dù bị cắt thành nhiều mảnh vẫn có thiên tài tái tạo ra phần thân thể bị mất và trở nên những cá thể hoàn chỉnh độc thân, gần như mọi loài sinh vật đều bị đe dọa do dịch tật. Và khi không tồn tại bàn tay phê chuẩn của toàn cầu, chúng lấy đâu ra thuốc khi bị rối loạn tiêu hóa? Làm thế nào chúng ứng phó với cơn ngứa ngáy chế tạo vì vây cánh sâu bọ? Ai sẽ bốn vấn cho chúng về cách thức dinh dưỡng hợp lý, khác nhau là trong thời đoạn sinh sản?

Tự nhiên sẽ luôn có cách, như trước nay vẫn vậy. Sứa và giun dẹp chính là minh chứng cho thấy sự sống có thể diễn ra theo những pháp luật mãnh liệt và kỳ diệu đến mức nào. Nhưng đó bảo đảm không phải là cách duy số 1, và càng không phải cách say mê số 1.

Tủ thuốc thân rừng sâu.

Năm 1987, khi đó Michael Huffman đang theo dấu một bầy đàn tinh tinh tại vườn đất nước Núi Mahale, Tanzania để học hỏi về cách sống xã hội của loài linh trưởng này. Đột nhiên, ông nhận thấy Chausiku – một con cái trưởng thành trong bạn thân có thể hiện mắc bệnh dịch. Nó tỏ ra yếu đuối, không bi hùng ăn uống và chỉ nằm lì trên cành cây, bỏ mặc con non mới nhì tuổi của nó cho những thành viên khác lại trong bạn hữu chăm chú. Cuối ngày hôm đó, con tinh tinh lấy sức leo xuống đất, uể oải lê bước tới bên một bụi cây. Nó hái một vài nhánh, rảnh rỗi chạp lột bỏ vỏ ngoài, nhai phần giữa và hút lấy chất nước bên trong. Đầu ngày hôm sau, tình trạng của nó vẫn không mấy cải thiện. Nhưng đến thân trưa, Chausiku bỗng dưng nhiên dựng dậy. Nó rời bè cánh, lao nhanh tới khoảng rừng gần đó rồi dành nhiều giờ tiếp theo ngấu nghiến tấn công chén hoa quả, trong khi Huffman tỉ mỉ quan sát và ghi chép lại hành vi kỳ lạ chưa từng xảy ra suốt nhiều tháng qua của con tinh tinh này.

Loại thực vật mà Chausik ăn là một loài thuộc họ Cúc có tên khoa học “vernonia amygdalina”. Kalunde – một kiểm lâm địa phương và cũng là cộng sự trong đoàn nghiên cứu cho Huffman biết, đó là cây “mjonso”, có vị rất đắng và được nhân loại WaTongwe phiên bản xứ dùng để chữa trị tình trạng lây nhiễm ký sinh trùng và những dịch bệnh về bao tử. Bài thuốc này rất hiệu quả, và thường có tác dụng sau 24h. Thông tin này khiến Huffman khôn xiết bất ngờ, bởi vì đó có thể là bằng chứng cho thấy tinh tinh biết sài thực vật mang dược tính để cải thiện tình trạng sức khỏe bản giữa.

Để chắc chắn, ông đã tích lũy và phân tích các mẫu phân tinh tinh. Kết quả cho thấy, số lượng trứng ký sinh trùng trong đó giảm tới 90% chỉ trong một ngày sau khi chúng nhai cây mjonso. Quả thực, loài cây này có chứa nhiều hợp chất với đặc tính diệt ký sinh trùng. Nhưng điều đặc trưng là nếu dùng với lượng bự, nó có thể gây ngộ độc và dẫn tới tử chiến. Quan sát gắn, Huffman còn phát hiện rằng bọn tinh tinh có xu hướng ăn giao diện cây này nhiều hơn vào những tháng mùa mưa ẩm ướt, cũng là thời khắc ký sinh trùng gây căn bệnh phát triển to gan. Tất cả những quan sát trên cho thấy, tinh tinh không những biết hình trạng cây nào có thiên tài chữa dịch, còn biết phải dùng bao nhiêu để không gây hại cho bạn dạng giữa và biết khi nào thì cần sử dụng đến nó nhất.

ADVERTISEMENT

Dù không phải nhân dân trước hết quan trung khu đến vấn đề này, nhà cửa dựa trên phát hiện tình cờ của Huffman lại đóng vai trò cần thiết cho sự ra đời và phát triển của ngành zoopharmacognosy. Đây là ngành mày mò về khí cụ động vật lựa chọn và tiêu thụ những thứ sẵn có trong thiên nhiên để chữa trị tình trạng dịch tật mà chúng bận rộn phải, hay ngăn nắp hơn là nghiên cứu về hành vi tự chữa căn bệnh của động vật (animal self-medication).

Thuật ngữ “zoopharmacognosy” vốn đã được nêu ra trước đó gần một thập kỷ, khi một số nhà linh trưởng học quan sát thấy nhiều loài tinh tinh thường nuốt trọn lá của một số loài thực vật mà lại không hề nhai. Họ cho rằng đó là cách chúng đào thải ký sinh trùng trong hệ tiêu hóa; nhưng mà lại chưa thể kiểm chứng giả thuyết đó. Về sau, học hỏi đã công nhận suy đoán này là đúng. Các mẫu mã thực vật trên không chứa hoạt chất mang dược tính nào, và thậm chí còn không tồn tại cả giá trị dinh dưỡng (tức thị chúng nằm ngoài “thực đơn” phổ biến của tinh tinh), nhưng mà lại có bề mặt lá thô ráp sần sùi hoặc sắc cạnh. Khi được nuốt trọn đại quát, chúng vào vai trò giống những tờ giấy nhám, giúp “nạo vét” và tống khứ ký sinh trùng khỏi ruột khi được thải ra vui sướng cùng với phân. Một số loài linh trưởng nổi trội thậm chí còn ăn cả than củi hoặc đất (geophagy). Ngoài các khoáng vật bắt buộc, trong đất có chứa cao lanh (kaolin), cùng với than củi, đây là hai chất có nhân kiệt diệt khuẩn và tiếp thu độc tố trong ruột khá táo tợn.

Không chỉ mang mục đích trị liệu (therapeutic) nhằm vào một căn dịch hay triệu chứng chi tiết hiện đang mắc phải; hành vi tự chữa dịch còn có thể hướng đến việc phòng căn bệnh (prophylactic). Nhiều loài linh trưởng cỡ nhỏ bé, tỉ dụ khỉ capuchin, có hành vi chủ đích dùng những con cuốn chiếu (millipede) hoặc kiến bôi lên khắp toàn cầu giống cách chúng ta sử dụng xà phòng. Cuốn chiếu tiết ra benzoquinone, còn kiến sản sinh acid formic, đều là các hợp chất có tuấn kiệt chống sâu bọ như muỗi, ve hay bọ chét rất tốt.

Liên quan đến sinh sản, một số nhà linh trưởng học có ý kiến rằng chúng thậm chí còn biết “sáng kiến hóa người tình” và dùng hành vi tự chữa căn bệnh như một công chất vấn trật tự xã hội trong đồng đội. Ví dụ, theo Kenneth Glander – giáo sư danh dự tại Đại học Duke, loài khỉ hú (howler monkey) ở Costa Rica sẽ tìm các đẳng cấp thức ăn để điều chỉnh tính acid trong cơ quan sinh sản sau này giao cấu. Bằng cách thay đổi cân bằng pH, khỉ cái có thể tăng thêm kĩ năng thụ tinh nhà cửa của các tinh trùng mang NST Y, kiến tạo ra nhiều con non mang thê thiếp đực hơn. Cần xem xét rằng vấn đề cấp bậc xã hội trong lũ có tác động rất đáng kể đến nhân tài sống sót và sinh sản của mỗi cá thể thuộc loài này. Ở mỗi cấp bậc, việc sinh con non đực hoặc cái sẽ mang giá trị chiến lược đặc biệt nhau. Việc quyết định mái ấm Lúc trước hình thành, bởi vì vậy có thể đem lại cho con non những lợi thế nhất định, sau đó giúp nhân rộng nguồn gene của con mẹ ở thế hệ sau. Khỉ nhện lông mượt (woolly spider monkey) ở Brazil cũng được cho là có tuấn kiệt điều chỉnh kỹ năng sinh sản (ngừa thai hoặc tăng nhân kiệt mang thai) bằng cách thêm vào hình thức ăn uống những mẫu mã thực vật nhất định.

Trường Y của Tự nhiên?

Tự nhiên sẽ luôn có cách, như trước nay vẫn vậy. Môi trường hoang dã tuy đầy rẫy thách thức, nhưng mà cũng không hề thiếu thốn những tài nguyên giúp ích cho tồn tại. Vậy nên, câu hỏi thiết yếu không phải là động vật sẽ nhai lá cây Y nào để chữa căn bệnh dịch X, mà lại là làm thế nào chúng biết rằng căn bệnh X có thể chữa khỏi bằng lá cây Y? Tại sao chúng biết lá cây Y mang dược tính đặc hiệu, để mỗi khi mắc bệnh dịch X lại tìm tới chính xác hình dạng cây này? Cụ thể hơn, phải chăng những “kiến thức y học” này đã được biên chép sẵn trong cuốn cẩm nang sống sót mang tên “Bản năng” mà lại mọi sinh vật ra đời đều được mẹ Thiên nhiên trao cho, hay đó là kết quả từ quá trình học tập tích lũy của mỗi cá thể qua quan sát đồng đẳng cấp và hưởng thụ ứng phó với những thách thức khe khắt của môi trường sống?

Huffman tin rằng, đây là hành vi đạt được nhờ học tập nhiều hơn là bản năng sẵn có. Tuy có chứng cớ cho thấy sự liên quan thân cảm nhận vị giác-khứu giác với bản lĩnh xác định chính xác hình dạng thực vật mang dược tính, cơ mà trong trường hợp của Chausiku và cây mjonso, việc chọn đúng thôi là chưa đủ. Muốn hút được chất nước đắng, đầu tiên nó phải tước bỏ lá, bóc vỏ ngoài, rồi nhai phần ruột cây bên trong. Quan trọng hơn cả, nó phải giới hạn việc hấp thu ở một lượng vừa phải, đủ để mang đến hiệu quả chữa căn bệnh, nhưng mà không quá nhiều tới mức bị ngộ độc. Tất cả những thứ rối rắm này chỉ có thể đạt được chăm sóc yêu cầu học được.

Về cơ phiên bản, tinh tinh không thích vị đắng và còn có chừng độ bảo thủ khá đáng kể trong thói quen ăn uống (tức tránh ăn món lạ). Do đó, chỉ có một tính năng rất tí hon là trong bối cảnh khan thi thoảng thức ăn, tình cờ một cá thể tinh tinh bị dịch thử ăn một phong cách thực vật mới và sau đó khỏe lại. Cá thể đó liên hệ tình trạng sức khỏe được cải thiện với việc ăn loài thực vật kia, rồi lặp lại mỗi khi gặp phải cảnh huống hao hao, từ đó chia thành một hành vi thế hệ. Thông qua học tập xã hội, quan sát lẫn nhau giữa các thành viên, đặc biệt là thân con non và con mẹ, hành vi này dần lan rộng trong bè cánh và được kế thừa qua nhiều thế hệ.

Bên cạnh đó, một chứng cứ khác ủng hộ giả thuyết này là việc những bè lũ tinh tinh đơn nhất, tuy phân bố phụ cận trong cùng một vị trí, có cùng một “tủ thuốc” với thành phần thực vật giống nhau cho trọn vẹn, mà lại lựa chọn dùng những đẳng cấp thực vật chi tiết Đặc biệt nhau. Điều đó cho thấy, tri thức về thảo dược không phải một thứ tầm thường số 1 sống sót sẵn từ trước.

ADVERTISEMENT

Tuy vậy, câu trả lời này chỉ lâm thời thời thích đáng trong khuôn khổ các loài linh trưởng.

Khả năng tự chữa bệnh dịch của động vật không chỉ giới hạn ở những họ hàng gần của trái đất, và càng không gói gọn trong một vài thứ hạng hành vi như các tỉ dụ được dẫn ở phần trước. Việc ăn các hình trạng thực vật để cải thiện các triệu chứng tiêu hóa và đường ruột cũng sống sót ở nhiều động vật có vú kì cục, và hành vi ăn đất cho mục đích na ná cũng có mặt ở nhiều loài vẹt. Hàng trăm loài chim biết quặp kiến vào mỏ bôi lên lông vũ, hay thậm chí lăn tròn vào tổ kiến để acid formic bám lên cơ thể giúp chúng ngăn ngừa chấy rận. Chim ô tác mập đực (great bustard) ăn bọ ban miêu (blister beetle) để tăng tuấn kiệt ham bạn tình, bất chấp độc tố chết quần chúng của chúng. Voi ở Kenya khi mang thai biết chính xác hình dạng lá cây nào có thể giúp kích thích chuyển dạ. Hay một số loài thằn lằn còn được cho là biết tìm ăn rễ cây có tính năng kháng lại nọc độc của rắn.

Việc tìm thấy nhiều loài động vật có khả năng tự chữa bệnh dịch, một lần nữa cho thấy sự kỳ diệu của thiên nhiên, nhưng mà song song cũng khiến câu hỏi về hình thức đằng sau hành vi này biến thành tinh vi rất nhiều.

Với tính năng trí não và nhận thức có thể được xem là vượt trội hơn so với phần còn lại của mọi người động vật, không khó hiểu khi các học hỏi về hành vi tự chữa bệnh trước nay phần đông xoay quanh các loài linh trưởng như tinh tinh hay vượn. Nhưng không phải chỉ những sinh vật linh lợi – ít hàng đầu là theo cách chúng ta vẫn thường tấn công giá, mới có thể xuất hiện những hành vi tinh xảo nhờ học tập.

Loài cừu có thể tương trợ một thí dụ về hành vi tự chữa căn bệnh đạt được chăm bẵm học tập cá nhân. Được truyền cảm hứng từ các tòa tháp của Huffman, nhà khoa học Juan Villalba thuộc Đại học bang Utah cũng tiến hành nhiều nghiên cứu về hành vi tự chữa bệnh dịch của loài nhai lại “ngây thơ khờ khạo” này.

Trong một thí điểm, những con cừu bị cho truyền nhiễm ấu trùng ký sinh được chia thành nhì nhóm. Một nhóm được cho ăn thức ăn trộn tannin, có bản lĩnh diệt ký sinh trùng và nhờ đó dần khỏi bệnh dịch, nhóm còn lại được cho ăn thức ăn phổ biến. Sau một thời gian, tổng thể bị cho truyền nhiễm ký sinh lần nữa, rồi được chọn lựa thân thức ăn thường và thức ăn có chứa tannin. Kết quả là những con cừu thuộc nhóm thể nghiệm trước đó từng được chữa khỏi nhờ tannin sẽ ưu tiên chọn hình trạng thức ăn có chứa chất này hơn, gợi ý rằng chúng đã hình thành sự liên hệ thân tannin với công dụng tiêu diệt ký sinh trùng. Cần chu đáo rằng trong điều kiện phổ quát, cừu cũng ngại thử thức ăn mới lạ (neophobic), và những phong cách cỏ chứa tannin thường không hề được chúng coi ngó tới, vì chất này sản xuất vị chát và cảm giác se lưỡi khá khó chịu (cũng như khi uống rượu chát đỏ).

Kết quả hao hao cũng xảy ra trong một tìm hiểu tinh tướng hơn: cừu được cho ăn 3 dạng hình thức ăn A, B, C có trộn các chất gây trạng thái giận dữ (có cả tannin), sau đó là thức ăn chứa các chất A’, B’, C’ giúp thuyên giảm từng trạng thái khó tính đó. Khi gặp lại một trạng thái khó tính bất cứ, thí dụ B, những con cừu trong nhóm thử nghiệm sẽ ăn nhiều thức ăn chứa chất B’ hơn, dù cả 3 lựa chọn đều được đưa ra vừa đủ. Đồng tình với Huffman, Villalba cũng cho rằng hành vi tự chữa bệnh dịch ở cừu tới từ quy trình học tập cá nhân, sau đó được củng cố và nhân rộng nhờ sự nhiễm xã hội trong đồng chí.

Dù chỉ là thí điểm trong bối cảnh chuồng trại nhỏ xíu và có sự can thiệp, giúp sức phần nào của các nhà tò mò, các kết quả trên vẫn cho thấy nhân kiệt phản động lại để thích ứng của động vật có thể diễn ra nhanh đến mức nào. Một trường hợp dị kì có thể kể đến là chim sẻ ở đô thị Mexico City. Cũng giống với nhiều loài chim Đặc biệt, chúng có hành vi mang các giao diện thực vật có tính diệt khuẩn hoặc chống sâu bọ gây hại về lót tổ, với mục đích bảo vệ trứng và con non. Nhưng thứ vật liệu mà bằng hữu chim sẻ chọn ở đây là các mẫu đầu lọc thuốc lá chứa nicotine, vốn cũng là một chất có tính kháng sâu hại. Hành vi này chắc chắn chỉ thế hệ được có mặt rất Những năm gần đây, ít nhất phải sau sự xuất hiện của thuốc lá đầu lọc.

Độ cầu kỳ về cội nguồn của luật tự chữa bệnh dịch ở động vật, thực ra lại tỷ lệ nghịch với kích thước não bộ của loài sở hữu hành vi này, nhất là khi xét đến trường hợp của sâu bọ.

Ở các tỉ dụ đã nêu phía trên, hành vi tự chữa căn bệnh thường chỉ có chức năng đối với một cá thể duy số 1. Nhưng với sâu bọ, hành vi này lại có thể mang ý nghĩa phòng bệnh dịch cho cả bè bạn. Kiến và ong mật đặc trưng yêu dấu việc tích lũy nhựa cây mang về tổ. Không phải để làm vật trang trí hay sáp thơm, đây chính là cách để chúng ngăn ngừa ký sinh trùng xâm nhập và gây dịch cho cả phe cánh.

Không những vậy, một số loài còn chủ động giúp thế hệ sau tránh được căn bệnh chúng đang gặp phải. Ở bướm vua (monarch butterfly), lây truyền phải ký sinh trùng Oprhyocystis elektroscirrha sẽ phân thành các mảnh vảy phủ sum sê trên thân, làm ảnh hưởng nghiêm trọng tới tính năng bay và cuối cùng sẽ giết thịt chết con bướm. Bản thân con bướm bận rộn bệnh chắc chắn cần yếu làm gì khác để cứu vãn tình hình. Nhưng để tránh lây sang bướm con, những con bướm bận rộn bệnh sẽ đẻ trứng trên những cây bông tai (milkweed) có chứa cardenolide, hợp chất có thể bỏ sót ký sinh trùng gây hại. Khi trứng nở, ấu trùng ăn lá cây cũng sẽ thu nạp chất này và thoát khỏi căn dịch quái cay nghiệt đang chầu chực. Điều đáng nói là chi cỏ hoa tai (danh pháp khoa học là asclepias) gồm rất là nhiều loài khác lại nhau, có lẫn không tồn tại tính kháng ký sinh, mà những con bị lây nhiễm sẽ có thiên hướng chọn những cây mang dược tính khỏe mạnh hơn để đẻ trứng. Rất có thể đây là một qui định mang tính di truyền: tình trạng lây nhiễm ký sinh trùng dẫn đến sự thay đổi về mặt sinh lý, khiến bướm vua mẫn cảm hơn với mùi hương hương và chọn được cây cỏ hoa tai thích đáng.

Điều hao hao cũng diễn ra trong trận chiến thân ruồi giấm và ong bắp cày. Ong bắp cày có cách sinh sản khá kinh rợn khi đẻ trứng trực tiếp vào những con côn trùng không giống nhau, và thân thể lỗ khu vực của nạn nhân xấu số sau khi trứng nở sẽ trở nên thức ăn cho bầy đàn ấu trùng ong. Để tránh kết cuộc u ám này, ruồi giấm cái sẽ đẻ trứng ở những nơi có nồng độ cồn cao, ví dụ trái cây thối rữa (tiết ra cồn ethanol), bởi vì ong bầu có tuấn kiệt chịu cồn khá kém. Đặc biệt, sự thay đổi hành vi đẻ trứng này của ruồi chỉ xảy ra khi chúng nhận thấy sự hiện diện của ong bắp cày cái.

Kể cả khi bỏ lỡ sự tương quan giữa năng lực nhận thức và chức năng ra đời hành vi mới từ yên cầu, việc tự chữa bệnh dịch ở sâu bọ khó có thể phát sinh nhờ quá trình học tập cá nhân. Xét trên vòng đời tương đối ngắn của sâu bọ toàn diện và thời gian ưng chuẩn con non hạn chế của bướm vua và ruồi giấm nói riêng (không tồn tại sự tiếp xúc, nuôi dưỡng con non khi đã đẻ trứng), việc truyền lại các hành vi phòng bệnh dịch cho mới sau hầu như là cần thiết, gợi ý rằng các nguyên lý này đã xuất hiện nhờ quá trình tiến hóa, một dạng bạn dạng năng sống sót mạnh mẽ liên quan trực tiếp đến sự sống còn.

Nhân tiện thể nhắc tới cồn, voi, khỉ (lại là cộng đồng khỉ) và nhiều loài đặc biệt cũng biết… say xỉn. Nói tới việc phê pha, tất nhiêntuy nhiên chẳng thể không nhắc tới số đông mèo và cây catnip. Và Thời gian qua hơn, các nhà khám phá phát hiện rằng cá heo cũng có những cuộc truy nã hoan “chơi bóng” và “get high” vây cánh bằng cách chuyền nhau cắn những con cá nóc (pufferfish) khổ thân. Ở nồng độ thấp, chất độc thần kinh mà cá nóc tiết ra chừng như gây cho bè bạn cá heo Cảm Xúc hí hửng và ảo giác.

Những triển vọng và bài học cho nhân loại.

Chắc chắn sẽ còn nhiều thứ bất ngờ để mày mò về hành vi dùng thuốc của động vật. Con quả đât, suy cho cùng cũng chỉ là một sinh vật sinh tồn bên trong và tuân theo những quy lao lý của thiên nhiên. Khi nói về bệnh dịch tật, thực ra dân chúng và động vật có hơn nhiều điểm y hệt, chúng cũng bận bịu những căn căn bệnh giống chúng ta. Và bởi vậy, nghiên cứu hành vi tự chữa bệnh của động vật đang mở ra nhiều triển vọng cho sự phát triển của nền y học, và điều này thực chất đã diễn ra từ rất lâu.

Ông nội của Kalunde (Kalunde là cộng sự của Huffman, nêu ở đầu bài viết) – một thầy lang trong bè đảng quần chúng. # WaTongwe bản xứ, cho biết đã tìm ra thuốc chữa kiết lỵ khi quan sát một con nhím bị bệnh tìm ăn một hình dáng rễ cây và hồi phục. Câu chuyện đó, cùng với tri thức về nhiều giao diện thảo dược ở nhiều nền văn hóa, khiến Huffman tin rằng nền y khoa dân tộc cổ đại của loài người có thể bắt nguồn chính từ việc quan sát và học theo hành vi tự chữa căn bệnh của động vật.

Cây mjonso, hay chính xác là vernonia amygdalina, hóa ra không chỉ có anh tài trừ giun sán, còn là đối tượng đang được học hỏi vận dụng vào chữa trị ung thư chăm sóc công dụng ức chế sự phát triển của khối u. Chất cardenolide trong cây xanh hoa tai, cứu tinh của bướm vua, ngoài anh tài kháng ký sinh còn đang được sài như chất giảm đau và giúp sức điều trị bệnh dịch hen suyễn.

Trong lĩnh vực nông nghiệp, các mày mò về cừu của Villalba Có thể mang lại ý nghĩ đó cho những thay đổi ở ngành chăn nuôi, khác lại là với các gia súc ăn cỏ. Bằng cách tương trợ đính nhiều kiểu dáng thực vật mang dược tính thay bởi vì chỉ xoay quanh một số thứ hạng thức ăn chính, vật nuôi có thể sẽ tự chữa căn bệnh cho chúng mà không cần tiêu tốn hoang phí thuốc men giống như sẽ giúp giảm thiểu cảnh hiểm nghèo sinh ra các chủng khuẩn kháng kháng sinh. Hình như, việc sắp xếp trồng những thứ hạng cây có dược tính để diệt sâu hại và đánh giá bệnh dịch căn bệnh, hoặc trợ giúp các loài bổ ích (tỉ dụ trồng các cây họ tùng bá để phụ tá nhựa cây cho ong mật – loài thụ phấn cấp thiết trong nông nghiệp) cũng là một hướng mày mò áp dụng giàu tiềm năng.

Nhưng trên hoàn toàn, khi nhìn vào hành vi tự chữa bệnh dịch của động vật, có thể thấy sự đề cao tính “thực nghiệm”, thử-sai liên tục của chúng khi đối mặt với tự nhiên ác liệt. Có thể chúng đã mắc những sai lầm, có thể chúng chỉ chiếm được kết quả vừa phải, mà chí ít vẫn thanh tao hơn những thứ niềm tin cứng ngắc, sai lầm và bảo thủ của một số nhân loại.

Có thể bạn quan tâm: » Những người “ghét” chạy theo đám đông

Hình như các loài động vật liên tiếp thử-sai, chuẩn bị giả mạo hiểm để tìm ra biện pháp chữa những bệnh thuận tiện cho phiên bản giữa và cho giống loài của mình; trong trái đất thế giới, chỗ khoa học phát triển và y học đã thành tích đẩy lùi nhiều căn căn bệnh nguy hiểm, nhiều toàn cầu lại chọn cách đào thải bốn duy lý tính và đối đầu với sự lộng lẫy của nhân giao diện, để bám víu vào những thứ như anti vaccine, hoặc lựa chọn cầu nguyện thay do đến bệnh viện.

Điều éo le ở đây là, rất có thể bài học về các nguyên lý chữa bệnh dịch của động vật lại là thứ truyền cảm hứng cho những nhân loại theo đuổi lối sống “thuận tự nhiên” phản khoa học. Vì vậy, bạn đọc hãy duyệt y rằng vui sướng những item y học béo hàng đầu của động vật đều quan yếu so được với thế giới. Chúng ta bất ngờ với việc loài khỉ biết cách ăn lá để diệt ký sinh trùng trong dạ dày, tiện lợi vì ta chưa bao giờ có kỳ vọng quá cao về chúng, còn chuyện “diệt ký sinh trùng trong dạ dày” với địa cầu chỉ là một viên thuốc giá vài nghìn đồng, không tồn tại gì đặc trưng.

Có thể bạn quan tâm: » Nên hay không nên thắp nhang, cúng bái, đốt vàng mã?

Tất cả những gì chúng ta nên học ở động vật là ý nghĩ đó cốt lõi đề cao thực nghiệm và ý chí tồn tại mãnh liệt, còn những thắng lợi chi tiết, hãy tin cẩn ở thế giới.

TẠP CHÍ LION DECOR

Xem lắp tại Youtube #240 Vì Sao Động Vật 3 Chân Không Tồn Tại? | Sự Thật Nổ Não SS03E11-E15

#240 Vì Sao Động Vật 3 Chân Không Tồn Tại? | Sự Thật Nổ Não SS03E11-E15
#VFacts, #SuThatNoNaoMua3

Có thể bạn sẽ thích xem:
► Sự Thật Nổ Não Season 1:
► Sự Thật Nổ Não Season 2:
► Sự Thật Nổ Não Season 3:
► Series Vũ Trụ by VFacts:
► VFacts Travel (Du Lịch 0đ):
► VFacts Top 5/Top 10:
► Thế Giới Và Những Cái Nhất:
► Bạn Hỏi VFacts Trả Lời:
► Súc Động Vật:
► Con Người Fun Facts:

📣 Giúp VFacts đạt 1.000.000 Subscribers:
📣 Fan Page chính thức:
📣 Group chính thức:

Một số tư liệu được sử dụng trong video thuộc về các chủ sở hữu đáng kính. Mọi vấn đề liên quan đến bản quyền, vui lòng liên hệ: ngocdat220594@gmail.com
Some of the materials used in the video belongs to the rightful owners. All Copyrights related issues should be sent to ngocdat220594@gmail.com

Advertisement
KhoaDigi - Khoa Nguyễn Digitial Marketing hiện đang là marketing manager tại CÔNG TY TNHH THƯƠNG MẠI SẢN XUẤT VÀ DỊCH VỤ LION DECOR luôn Cập nhật các thông tin sản phẩm, feedback khách hàng, tin tức nghề mới nhất của Lion Decor.